• ۩ Vượt Biên
  • ℍ1 Lịch sử
  • ℍ2 Lịch sử
  • ℍ3 Lịch sử
  • ℍ4 Lịch sử
  • Ꝟ1954-1975
  • Ký ức
  • Films
  • Photos
  • ۞Tưởng niệm۞
  • Văn chương
  • Bidong
  • Galang
  • Songkhla
  • HongKong
  • LandRefugees
  • Literary
  • Guam
  • Palawan
  • First
  • Phanat Nikhom
  • Sikiew
  • Hawkins
  • More
    • ۩ Vượt Biên
    • ℍ1 Lịch sử
    • ℍ2 Lịch sử
    • ℍ3 Lịch sử
    • ℍ4 Lịch sử
    • Ꝟ1954-1975
    • Ký ức
    • Films
    • Photos
    • ۞Tưởng niệm۞
    • Văn chương
    • Bidong
    • Galang
    • Songkhla
    • HongKong
    • LandRefugees
    • Literary
    • Guam
    • Palawan
    • First
    • Phanat Nikhom
    • Sikiew
    • Hawkins

  • ۩ Vượt Biên
  • ℍ1 Lịch sử
  • ℍ2 Lịch sử
  • ℍ3 Lịch sử
  • ℍ4 Lịch sử
  • Ꝟ1954-1975
  • Ký ức
  • Films
  • Photos
  • ۞Tưởng niệm۞
  • Văn chương
  • Bidong
  • Galang
  • Songkhla
  • HongKong
  • LandRefugees
  • Literary
  • Guam
  • Palawan
  • First
  • Phanat Nikhom
  • Sikiew
  • Hawkins

Hành Trình Thảm Khốc ۩ The Tragic Journey

I. Khó Khăn Sơ Khởi . The Initial Challenges

I. Khó Khăn Sơ Khởi . The Initial Challenges
II. Ghe Kém An Toàn, Tài Công Thiếu Kinh Nghiệm  và Hoạn Nạn trên Biển
 Untrustworthy Boats, Amateur Navigators and the Deadly Dangers on High Seas
III. Thảm Trạng Nhân Tạo: Hải Tặc Dã Man . Barbarous Piracy
IV. Thảm Kịch Hải Tặc Bắt Cóc Nô Lệ Hóa Người Việt Tị Nạn
 Abduction and Enslavement of Vietnamese Refugees
V. Ðồng Bào Tị Nạn Miền Bắc . Refugees from North Vietnam
VI. Bộ Nhân Việt Nam . Vietnamese Land People

_________________________________________


Hình ảnh một chiếc thuyền nhỏ chở đầy người tị nạn bất kể cái chết ra đi tìm tự do
đang lênh đênh trên mặt biển mêng mông vô tận tạo ra nhiều ấn tượng khó diễn tả từ
can đảm phi thường đến lãng mạn huyền ảo. Cuộc hải trình của thuyền nhân Việt Nam
thực sự là một cuộc phiêu lưu mạo hiểm đậm mầu sắc siêu tưởng và đầy thiên tai kinh
hãi cũng như thảm trạng nhân tạo. Mặc dầu không biết tương lai mịt mù sẽ đưa họ về
đâu, thuyền nhân nhất quyết vượt khỏi vòng đai kiểm soát của chính quyền cộng sản
Hà Nội bất kể các thử thách tàn khốc của biển cả. Phải chọn lựa giữa tự do và nô lệ ý
thức hệ, thuyền nhân chỉ còn một cách để từ bỏ thiên đường cộng sản: vượt biên ra đi
tìm tự do bất kể các hiểm nguy mất mạng.
Quyền tự do đi lại của nhân dân Việt Nam bị luật di trú và hình sự của Hà Nội thủ tiêu
cho nên họ phải bí mật tổ chức 'đi chui' tìm tự do bất kể các hiểm họa trên cạn cũng
như ngoài bể cả. Khi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ vào ngày 30-4-1975,
khoảng 130.000 người Việt may mắn thoát đi trước khi quân đội Bắc Việt tiến chiếm Sài
Gòn. Trong số đó, ngoại trừ 25.000 người được trực tiếp đưa thẳng đến các các khu
tạm trú của Hoa Kỳ và một số quốc gia tự do, đa số được di tản đến các tàu đang chờ
đợi đón tiếp tị nạn Việt Nam trước ngày 1-5-1975; một dữ kiện đáng ghi nhận là hơn
30.000 đồng bào đã dùng ghe, thuyền, bè và ngay cả tàu Hải Quân để ra đi.(1) Trong
những ngày sau đó, khoảng 3.000 người đã đến Tân Gia Ba bằng thuyền, 700 người
đến Pusan trên hai chiếc tàu Nam Hàn, và 3.743 đồng bào khác được tàu Clara Maersk của Ðan Mạch cứu và đưa đến Hồng Kông. Trong khi một nhóm tị nạn bằng ghe khác
gồm 823 người được hai tàu Ðài Loan vớt, khoảng 30.000 người Việt đã đến vịnh Subic
của Phi Luật Tân trên 26 chiến hạm Hải Quân miền Nam.(2) Sự ra đi của người Việt tị
nạn tiếp tục trong nhiều năm sau đó khi đảng Cộng Sản Việt Nam sử dụng bạo lực để
trả thù và Mát-xít hóa miền Nam.
Tài liệu của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc (CUTNLHQ) cho biết khoảng 378 người đã
đến được bến bờ tự do từ tháng 5 đến tháng 12-1975; và số lượng đó tăng lên đến
5.569 người vào năm 1976 và 17.126 người vào năm 1977. Số thuyền nhân ra đi tiếp
tục gia tăng đến 87.164 người vào năm 1978 và đạt cao điểm 201.189 người vào năm
1979. Giai đoạn 12 tháng từ giữa năm 1978 đến tháng 7-1979 cũng là thời điểm của
chiến dịch buôn lậu lương dân của Hà Nội. Khi bị cả thế giới cực lực lên án, Hà Nội đình
chỉ chiến dịch vượt biên 'bán chính thức' này vào tháng 7-1979 - một vài ngày trước hội
nghị quốc tế về Tị Nạn Ðông Dương I. Sau mốc thời gian đó, nỗ lực vượt thoát của
thuyền nhân vẫn không chấm dứt bất kể hiểm họa mất mạng vì dông tố hay hải tặc.
Ðến cuối thế kỷ 20, khoảng 1.6 đến 2 triệu đồng bào đã cố gắng trốn khỏi CHXHCN Việt Nam,(3) và trên ba phần tư triệu người hay 1% dân số Việt Nam vượt biên thành công và được tái định cư tại nhiều quốc gia khắp năm châu.(4) Chúng ta cũng đừng bao giờ quên là ít nhất 10% đến 20% tổng số người ra đi hay khoảng 80.000 đến 200.000 nạn nhân đã bỏ mình tại biển Ðông trên đường tìm tự do.(5)

◙ Khó Khăn Sơ Khởi
Trước khi đặt chân lên ghe, thuyền nhân phải bí mật liên lạc với nhau để sắp xếp cuộc
vượt biên. Người có trách nhiệm tổ chức chuyến đi phải bí mật tậu cũng như tân trang
ghe, mua máy mới, giấy tờ giả để che mắt công an, và các dụng cụ đi biển như hải bàn,
bản đồ, v.v. Ai ở Sài Gòn vào cuối thập niên 1970 đều biết hải bàn cũng như giấy tờ lậu
là các món đồ chợ đen đắt giá lúc đó. Song song, việc tìm kiếm thuyền trưởng cho các
ghe vượt biên cũng không phải dễ bởi vì đa số sĩ quan hải quân của miền Nam còn nằm
trong trại cải tạo; một số nào đó trốn tránh cải tạo thì cũng không dám công khai lộ
diện để người ngoài nhận biết, và một số ít ra tù cải tạo lại được thương gia Tàu Chợ
Lớn mua chuộc vào mạng lưới buôn lậu lương dân của Hà Nội (xin xem Chương III).(6)
Ngay cả khi vấn đề nhân sự cũng như trang bị tiếp liệu cho chuyến đi được giải quyết
thỏa đáng, thuyền nhân còn phải kiếm bãi biển an toàn để đưa người xuống ghe;
thuyền nhân càng sống xa cửa biển bao nhiêu, vấn đề này càng khó khăn bấy nhiêu.
Nhiều vụ vượt biên 'bể' khi bãi bị lộ, và người ra đi phải bỏ tất cả để chạy trốn sự lùng
bắt của công an. Trong trường hợp của ông Nguyễn Tấn Chung hiện đang ở Toronto,
ông phải nhảy rào và vượt qua bãi xương rồng bằng chân không khi cuộc vượt biên của
nhóm ông bị lộ; sau này ông Chung phải dùng dao nhỏ để cắt da lấy hàng trăm mũi gai
xương rồng ra khỏi lòng hai bàn chân. Trong một trường hợp khác, anh Nguyễn Ðịnh
Lâm đã bị công an bắn chết tại Bến Tre vào ngày 4-4-1979 vì 'vượt biên trái phép.'
Ðể bảo đảm sự an toàn của người xuống ghe, ban tổ chức thường mua bãi (hối lộ công
an địa phương) hay sắp xếp để đưa người ra đi theo từng nhóm nhỏ. Khi tổ chức cuộc
vượt biên trên ghe số 27 đến trại Songkhla vào ngày 12-2-1980, ông Nguyễn Tấn Phúc
nguyên là lính người nhái đã cho người xuống bốn ghe nhỏ tại làng Phong Mỹ, Cao Lãnh
vào ngày 25-1-1980. Sau đó bốn chiếc ghe di chuyển nhiều ngày trên các con kênh lớn
để đến cửa biển Rạch Sõi; tại đây ông dùng giấy tờ giả dân đi lấy cũi để qua khỏi trạm
kiểm soát của công an biên phòng và đưa ghe ra biển. Sau nhiều lần bị cướp Thái Lan
bóc lột và hành hạ dã man, 27 người trên ghe của ông Phúc đã được Tàu Akuna(7) của một tổ chức gọi là Food For The Hungry International cứu vớt trước khi bị sóng biển dìm chết.

Vấn đề tổ chức vượt biên không phải dễ cho nên ít ai ngạc nhiên khi thấy nhiều người
đã bị bắt giam. Nhiều người khác bị mất cả gia tài vì bị lừa bởi các tổ chức vượt biên giả
cũng như công an vốn thường nhận tiền hối lộ nhưng dễ phản phúc đối với dân vượt
biên để trấn lột thêm vàng. Vào tháng 5-1987, Tàu Cap Anamur với sự tài trợ của tổ chức Komitee Cap Anamur và hội Y Sĩ Thế Giới cũng như cộng đồng Việt Nam hải ngoại đã kịp thời cứu vớt một ghe vượt biên đang bị tàu công an biên phòng rượt bắt. Một thuyền nhân bị công an bắn chết và 170 người may mắn còn lại đã được đưa vào trại tị nạn Palawan ở Phi Luật Tân.
Trong trường hợp của ông Phan Văn Thiệu, ghe của ông rời Cà Mau trong đêm 17-1-
1979 đã bị công an bắn ba lần nhưng may mắn không ai bị trúng đạn. Sau khi bị hải tặc
Thái Lan cướp vài lần, ghe của ông Thiệu cuối cùng đến được Kora Bahru, Mã Lai, vào 

ngày 22-4-1979. Trong vụ khác xảy ra vào ngày 7-5-1983, một ghe rời khỏi cầu chữ Y
an toàn sau khi đón người dưới sự che chở của công an phường 13, quận 5. Nhưng khi
vào khúc sông thuộc phường 14, nhóm công an địa phương không được chia tiền hối lộ 

đã xả đạn bắn vào ghe bất kể tiếng kêu la thảm thiết của nạn nhân. Trên 100 người
trong đó có rất nhiều trẻ em và phụ nữ mất mạng; và vài ngày sau đó bọn công an còn
bắt gia đình nạn nhân phải đóng tiền phí tổn mới được nhận tử thi về chôn cất. Vụ giết
người tập thể tại cầu chữ Y này không phải vụ duy nhất, nhiều ghe khác rời Cát Lái, Cà 

Mau, Cần Thơ, Bà Rịa, Bến Tre, Long Xuyên, v.v., đã bị công an bắn giết khi chúng
không nhận được đủ phần hối lộ hay có lệnh phải cấm đoán người tị nạn ra đi, đặc biệt
là sau khi Hà Nội cam kết với cộng đồng quốc tế là sẽ ngăn chận cơn sóng vượt biên 

vào tháng 7-1979 tại Geneva. Chỉ riêng tại Cát Lái, gần 400 nạn nhân trên tàu Thành
Xương đã bị công an hại chết trong ngày 22-7-1978. Một trong số người còn sống sót là
ông Vương Vũ Văn hiện đang định cư ở New Jersey cho biết là Hà Nội đã nhận ít nhất là $1 triệu Mỹ-kim để cấp giấy phép rời bến cho tàu Thành Xương nhưng không biết tại
sao lại trở cờ vào giờ chót và giết hại nhiều nạn nhân vô tội. Việc giết hại người vượt
biên còn xảy ra tại các vùng đảo xa xôi như Trường Sa; theo tin từ chính phủ Phi Luật
Tân vào tháng 6-1979 thì bộ đội Hà Nội đóng đô tại các quần đảo này đã xã súng bắn 

vào một ghe tị nạn từ Nha Trang khiến 23 người bị mất mạng, 62 nạn nhân khác chết
đuối và chỉ có 8 thuyền nhân may mắn sống sót.
Ðối với những người vượt biên không có tiền để ra đi theo chương trình chính thức hay bán chính thức của chính quyền cộng sản thì khi bị bắt họ dễ trở thành nạn nhân của
các ông vua công an địa phương bởi vì vào những năm đầu Hà Nội không có một chế
độ hình phạt rõ ràng đối với dân vượt biên mặc dầu luôn luôn chủ trương 'kiểm sát' tất
cả các thành phần có lý tưởng tự do hay xua đuổi họ ra khỏi nước.(8) Thông thường

những người vượt biên bị công an bắt lại có thể bị kêu án từ vài năm tù cho đến tử hình
tùy theo tiền hối lộ nhiều hay ít cũng như gốc hay 'ô dù' tham ô có ảnh hưởng mạnh
hay yếu.

Ðài Hà Nội thỉnh thoảng thông báo tên tuổi của các nạn nhân bị chính quyền cộng sản
chọn lựa làm chiến lợi phẩm để tế công luận thế giới vốn đang lên án chính sách đàn áp
ý thức hệ và chủ trương tống xuất 'thành phần phản động' của đảng CSVN. Vào ngày
28-10-1981, Nguyễn Toại Chí bị nêu tên và tống tù chung thân trong khi các cộng sự

viên tổ chức vượt biên của ông bị kêu án từ 18 tháng cho đến 25 năm. Trước đó vào
ngày 9-9-1981, tòa Long An phạt Võ Văn Lung, Võ Văn Mậu và Châu Tá Nhành án tù lên đến 25 năm sau khi vụ ra đi của họ bị bể.

Tử hình là án trạng nặng nhất đối với dân vượt biên và thường được chính quyền cộng
sản dành cho thành phần 'ngụy quân, ngụy quyền' nhằm một mặt để che giấu chính

sách xua đuổi nhân dân của đảng và mặt khác để chứng minh với cộng đồng quốc tế là
Hà Nội thẳng tay trừng trị thuyền nhân Việt Nam hầu giữ lời hứa ngăn cản làn sóng
vượt biên tại hội nghị quốc tế về tị nạn Ðông Dương I. 'Ngụy quân' Trần Minh Châu là
một trong những nạn nhân đầu tiên bị Hà Nội dùng làm vật tế cộng đồng thế giới sau

hội nghị quốc tế I vào tháng 7-1979; ông đã bị kết án tử hình vào ngày 6-8-1979 vì tội
tổ chức vượt biên không qua đường dây chính thức hay bán chính thức của Hà Nội, tức
là vượt biên không có giấy phép nhà nước.

Một loại hình phạt nặng khác được chính quyền cộng sản sử dụng đối với người tị nạn là
tịch thâu toàn bộ tài sản của họ. Bất cứ khi nào công an khu vực nghi ngờ một gia đình
đã ra đi vượt biên, nhà cửa cũng như tài sản của họ sẽ bị niêm phong và sau đó bị
'trưng dụng.' Dân vượt biên khó đòi lại gia sản bởi vì Hà Nội xem họ là tội nhân mặc dầu

chính sách của đảng Cộng Sản là tống xuất các thành phần có tư tưởng và lối sống tự
do ra khỏi nước.
Ngay cả khi dân vượt biên đã lên ghe và nổ máy ra khơi, họ cũng chưa an tâm bởi vì

ghe còn có thể bị tàu công an biên phòng chặn bắt và dẫn độ về lại Việt Nam. Vào
tháng 5-1988, tàu Mary Kingstown đã kịp thời cứu một ghe tị nạn chỉ vài phút trước khi
ghe bị tàu Công An Ðặc Khu Vũng Tàu Côn Ðảo đuổi bắt kịp. Sau khi 81 thuyền nhân
được đưa qua tàu Mary Kingstown, nhóm công an biên phòng đã nhảy sang ghe tị nạn

để vơ vét và sau đó hoan hỉ kéo chiếc ghe không người trở lại Việt Nam như một chiến
lợi phẩm. Trong nhiều trường hợp, thuyền nhân bị tàu biên phòng chặn lại có thể nộp
mãi lộ thường là vàng lượng cho công an để được tiếp tục cuộc hải trình; trong những

trường hợp khác, công an biên phòng vẫn cứ bắt giữ dân vượt biên sau khi đã vơ vét tài
vật của họ. Ngoài ra còn có nhiều vụ tàu Liên Sô đang công hành ngoài biển Ðông đã
chặn bắt ghe tị nạn và dẫn độ về cho chính quyền cộng sản Việt Nam; giới lãnh đạo Hà

Nội mù quáng không nhận ra được là hành động này của Mạc Tư Khoa trực tiếp vi phạm
trầm trọng công pháp quốc tế cũng như gián tiếp công khai khinh thường khả năng bảo
vệ chủ quyền quốc gia của Hà Nội.
Ðối với những thuyền nhân may mắn vượt khỏi vòng đai kiểm soát của công an biên

phòng Việt Nam, hải trình của họ vẫn còn phải đối đầu với vô vàn tai ương thiên nhiên
của biển cả cũng như hoạn nạn nhân tạo đến từ hải tặc dã man và chính sách bài tị nạn
tàn nhẫn. Số lượng thuyền nhân đã mất mạng trên biển cả khó có thể được ước đoán

chính xác. Như đã bàn ở phần trên, ít nhất 10% đến 20% tổng số người ra đi hay
khoảng 80.000 đến 200.000 nạn nhân đã bỏ mình tại biển Ðông trên đường tìm tự do;
một vài tư liệu của cộng đồng thuyền nhân thẩm định là số người tị nạn Việt Nam chết
vì tai ương thiên nhiên hay bị hải tặc giết phải là vài trăm ngàn lên đến cả triệu nạn

nhân. Những linh hồn vô danh này không những bị các biến chuyển thời sự hiện tại
quên lãng mà còn bị các thế lực chính trị đen tối trong quá khứ bôi nhọ là thành phần di
dân kinh tế đê tiện mặc dầu chính quyền Hà Nội cũng như chính khách quốc tế tự biết

việc đánh đổi mạng sống vì miếng ăn đối với dân tộc Việt Nam là chuyện hoang đường
phi lý, và đa số những người ra đi là dân khá giả trong xã hội cho nên không có vấn đề
vì thiếu miếng cơm manh áo cho nên họ phải vượt biên. Chương Hải Trình Thảm Khốc
này có thêm phần phụ trương phác họa lại vài trang trong sổ tay của một cậu bé viết

vào đầu năm 1980 tại trại tị nạn Songkhla ở Thái Lan với hy vọng sẽ soi sáng đoạn
đường kinh hoàng của thuyền nhân Việt Nam cũng như khát vọng không phai mòn của
những người tị nạn may mắn sống sót đến được bờ bến tự do.

Số lượng thuyền nhân đến được các quốc gia tự do
    Thống kê của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc

First Asylum  1975-76  1977     1978    1979
 Country        516   2,736   7,906   68,748

Hong Kong        244    679    2,582   47,651
                373    833      712   1,155
Indonesia              161      98      150
   Japan         0
   Korea                25      945   3,363
                 0    5,820   63,125  53,998
  Macau       1,160   1,153   2,582   7,851
 Malaysia       713    318    1,848   5,561
Philippines     131
Singapore             4,636   6,401   11,987
              2,699    765      965     725
 Thailand       111
  Others

First Asylum   1980     1981    1982    1983
 Country     6,788    8,470   7,836   3,651
             6,721    9,021   7,535   5,600
Hong Kong
Indonesia    1,270    1,026   1,037     799
               20       168     65      20
   Japan                448     59       0
   Korea     2,270
  Macau               23,113  14,857  10,935
             18,265   8,352   3,288   1,759
 Malaysia    4,932    5,367   2,745   1,575
Philippines  9,285
Singapore             18,402  6,076   3,534
             21,649     71       7      46
 Thailand      172
  Others

First Asylum  1984     1985    1986     1987
             2,230    1,112   2,059   3,395
 Country     7,331    6,139   2,596   1,758
Hong Kong
Indonesia     503      435     330      144
               45      186     131      21
   Japan       0                         3
   Korea     9,035      0       8     8,030
  Macau               7,398   7,402
 Malaysia    1,870                    2,677
              896     2,602   2,046     858
Philippines  2,807     891     739    11,195
Singapore             3,310   3,886
 Thailand      44                       25
                        42     254
  Others

First Asylum   1988     1989    1990    1991
 Country
             18,449   34,503  6,595   20,206
Hong Kong     1,876    6,701   13,835  1,397
Indonesia      219      706             366
                                336
   Japan       90       193              0
                                 0
   Korea

Macau          6       0      0     0
Malaysia     13,312  16,718  1,326   0

Philippines   3,826   6,678   1,108  252
Singapore       698   1,392    147    6
Thailand     7,086   4,373   9,054
                                    202
 Others         0       0      0     0

First Asylum  1992    1993    1994   1995-99
 Country
               9     101     359       164
Hong Kong      18      23       1        0
Indonesia     17     638               63
               0       0     109        0
   Japan                       0
   Korea       0       0                0
               1       0       1        0
  Macau        0       1       0        0
 Malaysia                     32
Philippines    0       0                0
              10      14       0        0
Singapore      0       0       0        0
 Thailand                      0
  Others

Lưu Ý: Thống kê của CUTNLHQ không bao gồm những thuyền nhân đã mất mạng trên
đường vượt biên (td: Vào ngày 14-11-1979, báo People's Journal ở Phi Luật Tân tường
thuật là dân săn bắn địa phương tìm thấy 60 xác người cùng vật dụng cá nhân và một
chiếc ghe tương tự như ghe tị nạn Việt Nam tại một khu rừng hẻo lánh cách thủ đô
Manila khoảng 75 dặm về phía Nam.) hay được cứu trên biển bởi các thương thuyền và
sau đó được chấp nhận cho định cư mà không phải trải qua thời gian chờ đợi ở trại tị
nạn cũng như một số nhỏ dân vượt biên từ năm 1996 (td: Vào ngày 21-6-1999, sau hai
tuần lênh đênh trên biển 11 thanh thiếu niên Việt Nam gồm 7 gái và 4 trai tuổi từ 14
đến 18 tuổi đã đến được bờ biển Iba ở phía Bắc Phi Luật Tân trên một chiếc ghe dài 17
thước.)

  

※ Source: Thuyền Nhân: Ấn Tích Lịch Sử  ۩  Lloyd Duong Ͼ 2000

_________

Chú thích:

1 Nhiều đồng bào vô tội đã hy sinh oan uổng trong đợt tản cư vào mùa Xuân 1975. Vài
vụ tử thương được chứng kiến và ghi lại rải rác trong một số sách và bài viết, nhưng
hiện nay chưa có tài liệu nào nghiên cứu để thẩm tính số nạn nhân đã mất mạng trong
giai đoạn đó.


2 Ða số các tài liệu xác định là số dân tị nạn Việt Nam ra đi trong mùa Xuân 1975 là
khoảng 130.000 người, và con số này được báo chí Việt ngữ cũng như ngoại ngữ lập lại
nhiều lần (điển hình là sách Calculated Kindness: Refugees and America's Half-Open
Door 1945-Present của Gil Loescher và John A. Scanlan), nhưng một số tài liệu của
phòng Southeast Asian Archive thuộc Ðại Học California tại Irvine cho thấy số đồng bào Việt Nam ra đi trong giai đoạn này chỉ khoảng 125.000 người trong tổng số 130.000 người ra đi từ Ðông Dương trong giai đoạn đó (điển hình là tài liệu Documenting the Southeast Asian Refugee Experience của Anne Frank). Tuy nhiên, một dữ kiện mà chúng ta biết chính xác là chỉ có một nửa số người này ra đi với sự trợ giúp của chính quyền Hoa Kỳ. Một nửa kia hay 65.000 người đã phải tự kiếm cách ra đi; và đa số sử dụng ghe, tàu bè và thương thuyền cũng như các chiến hạm để vượt thoát. Họ có lẽ là những thuyền nhân Việt Nam đầu tiên tị nạn cộng sản.

3 'When Saigon fell to North Vietnamese forces in 1975, more than 1.6 million South
Vietnamese fled their country.' ASIAAccess/countries/vietnam (January 1999).


4 Cho đến cuối thế kỷ 20, thống kê chính thức của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc cho
biết là 796.310 thuyền nhân và 42.918 bộ nhân đã may mắn đến được trại tị nạn kể từ
tháng 5-1975. Các con số này không bao gồm những người được cứu trên biển và đi
định cư thẳng mà không qua hệ thống trại tị nạn.


5 Nhiều tính toán đã xác nhận số lượng đồng bào mất mạng có thể lên đến 40%-70%
tổng số dân vượt biên. Vào tháng 6-1978, Thứ Trưởng Ngoại Giao đặc trách Ðông Nam
Châu Á và Thái Bình Dương của Hoa Kỳ là Richard Holbroke đã tuyên bố: người tị nạn
'ra đi trên những chiếc ghe mỏng manh với ít tiếp liệu, và sự tính toán cho thấy chỉ một
nửa là đến được bờ bên kia' (refugees 'set out in rickety boats with few supplies, and
estimates are that only half make to another port.') Giữa tháng 4 và 7-1979, dựa vào tin
tình báo và các cuộc phỏng vấn với dân tị nạn, Bộ Trưởng Di Trú Úc là Michael
MacKellar đã kết luận: 'Chúng ta thấy số lượng mất mạng khoảng từ 100.000 đến
200.000 trong vòng bốn năm vừa qua.' ('We are looking at a death rate of between
100,000 and 200,000 in the last four years.')


6 Nhiều cựu sĩ quan hải quân miền Nam đã được thương gia Hoa kiều đưa ngay vào
Chợ Lớn để nằm chờ ngày ghe được Hà Nội cho phép ra đi.


7 Khi được vớt lên boong, chính những thuyền nhân như ông Nguyễn Tấn Phúc đã nghi
là tàu Akuna không phải là tàu cứu người tị nạn bình thường. Vào năm 1990 khi tham
dự một cuộc biểu tình tại thành phố Lepzig, Ðông Ðức, người viết gặp một vị tị nạn
trung niên và được cho biết tàu Akuna này từng được sử dụng để đưa người về Việt
Nam hoạt động chính trị.


8 Hà Nội chỉ đặt ra chế độ hình phạt rõ ràng đối với dân vượt biên sau này trong bộ luật
hình sự (xin xem Chương 3 về vấn đề cưỡng bách hồi hương). 

I. The Initial Challenges

The image of a small boat full of escapees who risked death to search for liberty somewhere in the boundless blue ocean appears both incredibly courageous and, at times, mysteriously romantic. The reality of the Vietnamese boat people’s journey, however, is full of tragic experiences, endless natural calamities and brutal man-made obstacles. Without knowing their destiny and the prospects of return, the boat people were determined to escape Socialist Vietnam's oppressive control despite the deadly dangers on high seas. For them who had to choose between liberty and bondage, there was only one way to escape the communist ideological persecution: fleeing Socialist Vietnam to freedom, even at the risk of death. 

The freedom of movement of Vietnamese citizens was abolished by Hanoi’s immigration and criminal laws, and thus they had to undertake enormous risks to find their own means to flee communist systemic persecution. On April 30, 1975 as the South Vietnamese government was collapsing, approximately 130,000 refugees managed to escape the communist advance successfully with some American assistance. Of these first Asylees, except for 25,000 who were flown directly to U.S. territories or safe shelters in neighboring states, many were either ferried or airlifted to awaiting rescue ships before May 1, 1975; and notably 32,000 refugees boarded boats, rafts, floats, and even South Vietnamese Navy ships to flee the approaching communist soldiers.[1] In the subsequent days, 3,000 Vietnamese went to Singapore by boats, 700 arrived in Pusan on two South Korean Navy ships and 3,743 others were evacuated at sea and carried to Hong Kong by the Clara Maersk, a Danish containership. Another group of 823 refugees were rescued by two Taiwanese vessels, while 30,000 Asylees showed up at Subic Bay in the Philippines on 26 South Vietnamese Navy ships.[2] The outflow of Vietnamese refugees increased steadily thereafter as the communists heightened their search for retribution and revenge while establishing an ideological regime in the South.

According statistics kept by the United Nations High Commission for Refugees (UNHCR), 378 boat persons reached safety between May and December 1975. That number increased to 5,569 in the following year and then to 17,126 in 1977.  The number continued to climb to 87,164 in 1978 and reached its peak at 201,189 in 1979. The years of 1978 and 1979 also witnessed Hanoi’s well-organized but poorly-executed plan to export ethnic Chinese and prosperous Vietnamese to neighboring states. Hanoi’s ‘freedom for sale’ scheme was ‘officially’ suspended in July 1979 (just before the first international conference on Indochinese refugees) when the outside world voiced strong objections. Thereafter, the boat people’s escapes did not cease but continued at a steady pace despite the high risks of death at sea and of rape and pillage by barbarous pirates. 

By the end of the millenium, between 1.6 and 2 million people had tried to flee Socialist Vietnam,[3] and approximately three-quarters of a million boat people or 1% of the Vietnamese population were resettled in countries of final asylum.[4] Let us not forget the conservative estimate that at least 10% to 20% or about 80,000-200,000 of the escaping boat people vanished at sea without a trace.[5]

  

◙ THE INITIAL CHALLENGES

Long before even setting foot on a boat and sailing off to either freedom or death, Vietnamese asylum-seekers had to establish discreet contacts to organize their flight. Any journey’s organizer had to secretly buy a fishing boat, repaired it, acquired new engines and new fishing permits as well as navigational tools such as marine compasses on the black market. Recruiting the professional service of a former South Vietnamese Navy captain for the journey proved challenging because many of them were being detained in re-education prisons, and only a few were able to elude Hanoi’s apprehension. 

But even if all these criteria were met, the organizer still had to secure safe boarding bases for the escapees. The farther from the coast the Asylees were, the more difficult for them to arrange their departing grounds; to circumvent this problem, they either paid large bribes to coastguard cadres or carefully planed to have small numbers of people picked up at different locations before heading to sea. In the case of Boat no. 27 entering Songkla Refugee Camp on February 12, 1980, Mr. NguyÍn TÃn Phúc, a former Navy frogman, and his organizing team of two arranged to pick up 25 escapees including his family at Phong MÏ village, Cao Lãnh, on January 25 and traveled for three days on small canals to Råch SÕi port from where Mr. NguyÍn used faked documents to pass the coastguard station and sailed to sea. After many brutal attacks by Thai pirates who destroyed the boat’s engines and raped its female passengers, the 27 desperate Asylees were rescued by an international ship while their craft was floating aimlessly somewhere in the Gulf of Thailand.

In light of the difficulties associated with organizing escapes, it is easy to see why many Asyleees were arrested and imprisoned when their escape plan was exposed by Hanoi’s security cadres. Others lost all their life savings to unscrupulous thugs and communist officials, who quickly took the gold and hard currencies paid by the asylum-seekers for safe boarding bases and then arrested them for ‘reactionary activities.’ In May 1987, the joint French-German Ile de Lumière II - Cap Anamur III dispatched by Komitee Cap Anamur and Médecins du Mondeintercepted an attack by a Vietnamese patrol vessel, which was shooting at a fleeing refugee boat. One Asylee was killed by the firing; the remaining 170 people were rescued by the Ile de Lumière II - Cap Anamur III and subsequently taken to Palawan Refugee Camp. 

Text Box: Many failed escapees lost all their life savings to unscrupulous thugs and communist officials, who quickly took the gold and hard currencies paid by the asylum-seekers for safe boarding bases and then arrested them for ‘reactionary activities.’

In another case, Mr. Phan Væn ThiŒu’s boat leaving Cà Mau port in darkness on April 17, 1979 and was fired upon three times by Hanoi’s security cadres; fortunately, no one was injured. The refugees managed to reach Kora Bahru in Malaysia on April 22, 1979 after surviving several attacks by Thai pirates. In one tragic incident in 1983, almost all escapees on a boat were murdered by the security force of Ward 14 in Ho Chi Minh City’s District 5. On May 7, the unfortunate victims boarded a small craft near the well-known Y bridge after paying protection grafts to the Ward 13 security office. Unknown to them, the bribes were not shared, and thus their boat was fired at indiscriminately by the Ward 14 cadres as soon as it left Ward 13 territory. After the fatal shooting, more than 100 people including many women and young children died. This mass murder was not an isolated incident. There were many reports of systematic killings of Vietnamese escapees by Hanoi’s cadres in Cát Lái, Cà Mau, CÀn ThÖ, Bà RÎa, B‰n Tre, Long Xuyên, etc. In Cát Lái alone, on July 22, 1978, nearly 400 lives on the Thành XÜÖng were exterminated by the communist security force; one of the few survivors, Mr. VÜÖng VÛ Væn currently living in New Jersey, estimated that Hanoi received almost U.S. $1 million from the Thành XÜÖng passengers. In another case in June 1979, Hanoi’s forces stationing on one of the Spratly Islands shot and killed 23 refugees on board a boat from Nha Trang; 62 others drowned while trying to swim to safety, and only eight people survived to report this brutal attack.

Those escapees, who were unable or unwilling to pay for safe routes and subsequently apprehended, would face lengthy prison terms at the pleasure of the local cadres because Hanoi, which aimed at expelling all people with liberal attitudes and beliefs, did not have a uniform policy toward the captured Asylees. Jail sentences for failed escapees ranged from several months to life imprisonment depending on the amount of bribery that their families could come up. 

Radio Hanoi occasionally announced the names of the apprehended Asylees. On October 28, 1981, it reported that NguyÍn Toåi Chí was sentenced to life imprisonment while his assistants received jail terms ranging from 18 months to 25 years for trying to flee Socialist Vietnam. Earlier on September 9, 1981, the court of Long An province sent Võ Væn Lung, Võ Væn MÆu and Châu Tá Nhành to the penitentiary for up to 25 years after their planned escape was uncovered by security cadres, who apparently did not receive a fair share of the bribe. 

The most severe penalty for the detainees was capital punishment. At times, Hanoi would down death sentences to captive Asylees in a desperate attempt to conceal its expulsion policy. A clear example is the execution of Mr. TrÀn Minh Châu on August 6, 1979 after the communist delegation to the first international Conference on Indochinese refugees in July 1979 promised to discontinue the CPV's ‘freedom for sale’ project. The less serious sentence for the incarcerated escapees often involved the immediate confiscation of their residence and properties. As soon as the local public security office suspected that a family had left home to take part in an escape known in Vietnamese as vÜ®t biên, even before the victims were apprehended, their house would be niêm-phong or placed under seizure and confiscated thereafter.

Even if the escapees successfully got on board a boat and sailed to the open sea, there was still no guarantee that they would not be forced to return by Hanoi’s patrol ships. In one reported incident, the Mary Kingstown rescued a boat in international waters in May 1988 just minutes before it was about to be apprehended by a Vietnamese coastguard ship. After 81 refugees boarded the Mary Kingstown, security cadres on the C.A.ñ.K.V.T.C.ñ.[6] patrol ship immediately jumped over the abandoned boat to gain control and steer it back toward Vietnam. In many cases, the escapees were able to bribe the patrol cadres; but there were also instances where the cadres still arrested them after accepting the grafts. In other incidents, Soviet vessels operating in the South China Sea stopped and apprehended fleeing Vietnamese boats; the detainees would be taken back to Vietnam and subsequently turned over to Hanoi’s security force.

For those boat people, who successfully sailed away from Hanoi’s final geographic limits of control, there were many other natural dangers on the high seas and man-made calamities caused by cruel pirates and indifferent neighbors, who treated them as a burden and nuisance. The number of those boat people, who vanished at sea without a trace, is unknown. As aforementioned, at least 10% to 20% or about 80,000-200,000 of the escaping Asylees perished in their quest for freedom; some estimates by Vietnamese refugee sources even put the number as high as several hundred thousands to one million unknown souls. They died in vain with neither a trace nor an inquiry into their fate; and worse, their deaths remained unmourned yet their ill-fates were disregarded completely by those, who reacted with indifference or hostility toward Vietnamese asylum-seekers. This chapter includes several excerpts from a young boy’s chronicles written in Songkhla Refugee Camp in Thailand after his near-death escape from Socialist Vietnam to illuminate the boat people’s tragic journey to freedom with hopes that the deceased victims’ fate and the fortunate survivors’ aspiration could be understood and appreciated. 

  

※ Source: The Boat People: Imprints on History  ۩  Lloyd Duong Ͼ 2000

___________


[1] Many people died during the frantic evacuation in April 1975. There are eye-witnessed reports of accidental deaths and failed departures but no attempt has been made to compute the number of unknown deaths.


[2] Most statistical sources put the number of Vietnamese refugees leaving in the spring of 1975 at 130,000 (e.g., see Gil Loescher and John A. Scanlan's Calculated Kindness: Refugees and America's Half-Open Door 1945-Present), but documents from the UCI Libraries' Southeast Asian Archive estimate that, out of the 130,000 refugees who left Indochina on or before April 30, 1975, there were only 125,000 Vietnamese (e.g., see Anne Frank's Documenting the Southeast Asian Refugee Experience). We know, however, only one-half of those 130,000 refugees left with the U.S. government's assistance. The other 65,000 Asylees escaped on their own by employing whatever means they could find; and most of them used boats and commercial ships as well as military vessels.


[3] ‘When Saigon fell to North Vietnamese forces in 1975, more than 1.6 million South Vietnamese fled their country.’  ASIAAccess/countries/vietnam (January 1999).


[4] By the end of the 20th century, official UNHCR statistics report 796,310 boat people and 42,918 land people from Vietnam had arrived at various refugee camps since May 1975; excluded from the statistics are those who were evacuated at sea and resettled directly without passing through refugee camps.


[5] Some estimates put the loss ratio as high as 40%-70%. In June 1978, U.S. Assistant Secretary of State for East-Asian and Pacific Affairs Richard Holbroke stated that refugees ‘set out in rickety boats with few supplies, and estimates are that only half make to another port.’ Between April and July 1979, Australian Minister of Immigration Michael MacKellar cited intelligence sources and interviews with refugees in his conclusion: ‘We are looking at a death rate of between 100,000 and 200,000 in the last four years.’


[6] Công An ñ¥c Khu VÛng Tàu Côn ñäo (Special Zone VÛng Tàu Côn ñäo Public Security Force).

II. Ghe Kém An Toàn, Tài Công Thiếu Kinh Nghiệm và Hoạn Nạn trên Biển

Ðể đến được một quốc gia tự do nằm ngoài bán đảo Ðông Dương, thuyền nhân phải
vượt qua biển Ðông Hải hay vịnh Thái Lan vốn không phải là vùng bể an toàn cho
những tay đi biển tài tử hay bất đắc dĩ như đa số dân tị nạn Việt Nam. Khí hậu đại
dương tại hai khu này tương đối khắc nghiệt với nhiều cơn giông bão cuộn gió lên đến
trên hàng trăm cây số một giờ và có thể đánh đắm tất cả tàu bè mỏng manh trên mặt
bể. Trong mùa hạ từ tháng 4 đến tháng 9, gió từ xích đạo thổi vào Việt Nam theo
hướng Tây Nam và đe dọa toàn bộ vịnh Thái Lan với các cơn giông tố đi liền với mưa
rào bất thường trên biển. Từ tháng 10 trở đi, gió Ðông Bắc thổi mạnh vào vịnh Bắc
phần và vì bị rặng núi Trường Sơn chặn lại cho nên gây ra nhiều cơn mưa ở vùng Quảng
Trị-Thừa Thiên cũng như bão tố tại Ðông Hải có sức gió lên đến 160 km/giờ; bão tố trên biển lại thường kèm theo mưa mùa dữ dội có khả năng đánh chìm các ghe thuyền tị nạn không may mắn bị kẹt giữa đường di chuyển của trung tâm bão có tốc độ từ 20 km đến 40 km/giờ.(9)
Tai ương thiên nhiên chờ đón thuyền nhân Việt Nam không chỉ dừng lại với khí hậu khắc
nghiệt mà còn tạo ra những chướng ngại vật ngầm dưới mặt nước khiến nhiều đồng
bào tị nạn mất mạng. Các đảo và cồn san hô nằm dọc theo phía Tây và Tây Nam của
Phi Luật Tân trở thành một hàng rào nguy hiểm trải dài nhiều cây số cản trở hải trình
tầm tự do của dân Việt Nam. Nhiều ghe đâm vào cồn san hô bị hư hại không sửa chữa
được khiến thuyền nhân phải bỏ ghe mà lội lên bờ; và trong khi chờ đợi cứu vớt, họ
phải cố gắng tìm cách bắt cá và nghêu sò để sống nhưng đa số không tồn tại được lâu
vì thiếu nước uống. Vào tháng 9-1978, 50 đồng bào tị nạn trong đó có cô Trần H. Huệ
bị kẹt trên một hòn đảo san hô khoảng 5 tháng với kết cục thê thảm là, ngoại trừ cô
Huệ, các nạn nhân khác đã mất mạng vì đói khát.
Trong nhiều trường hợp vượt biên, thuyền nhân ra biển trên những chiếc ghe không an
toàn lại thiếu chuẩn bị kỹ lưỡng và do tài công ít kinh nghiệm hải hành lèo láy(10) bất
kể các hiểm nguy của đại dương. Hải cụ của dân vượt biên thường là một bản đồ của
khu vực Ðông Nam Á và một địa bàn - hải bàn là một dụng cụ đắt tiền trên thị trường
chợ đen và người tìm mua dễ bị công an chìm theo dõi. Bản đồ địa dư của khu vực luôn
luôn chứa đựng nhiều sai biệt với hải đồ cũng như không ghi rõ các chướng ngại vật
ngầm trên biển; và địa bàn thường trở nên thiếu chính xác khi ghe bắt đầu ra khỏi cửa
biển. Dĩ nhiên là đa số ghe vượt biên không bao giờ trang bị phao cấp cứu cho nên, khi
ghe bị đắm, toàn bộ thuyền nhân chết đuối nếu không được cứu vớt kịp thời.
Ða số thuyền tị nạn không những thiếu hải cụ mà còn là những chiếc ghe không an
toàn cho nên thường bị phá sau khi hoàn thành trọng trách đưa người vượt biển. Rất
nhiều ghe thuộc loại đầu tà được chế tạo cho mục đích di chuyển trên sông ngòi nhưng
lại được thuyền nhân đưa ra biển để đối đầu với tử thần bể cả. Một số ghe khác rất nhỏ
- khoảng 3 thước bề ngang và 10 thước bề dài - được sử dụng đi đánh cá hay lấy cũi
trong những vùng biển gần bờ cũng được thuyền nhân dùng để chuyên chở một số
lượng lớn người tị nạn vượt đại dương tìm tự do. Trong vài trường hợp hy hữu, ngay cả
xuồng chèo bằng tay cũng được một số gia đình miền biển lèo láy đến được các trại tị
nạn.
Một thực trạng thường xảy ra trong hải trình thảm khốc của thuyền nhân Việt Nam là sự chuyên chở quá trọng lượng của các ghe tị nạn; và vì ghe không bao giờ có đủ chỗ cho
tất cả mọi người cho nên đàn ông thường phải ngồi trên nóc thuyền hay bất cứ nơi nào
họ có thể kiếm được, và đàn bà cũng như trẻ em thường ngồi co cẳng dưới hầm ghe.
Bệnh say sóng đưa đến ói mửa cùng mùi dầu xanh cộng với tiếng la khóc và mùi nước tiểu của trẻ thơ trong cái khung cảnh lờ mờ của hầm tàu tạo ra một không khí thểu nảo
chỉ có trong các nhà quàn xác.
Các chiếc ghe mỏng manh của thuyền nhân Việt Nam từng được gán cho danh hiệu
'những cái hòm nổi'(11) ra đại dương với lượng thực phẩm và nước ngọt dự trữ rất giới
hạn. Nước ngọt dĩ nhiên không bao giờ đủ cho tất cả mọi người trên ghe, và thực phẩm
(thường là gạo và mì khô) chỉ đủ nếu ghe không gặp hoạn nạn trên biển. Một khi thực
phẩm và nước ngọt dự trữ không còn, thuyền nhân chỉ hy vọng thấy được đất liền hay
dàn khoang ngoại quốc(12) hoặc được cứu vớt kịp thời. Trong trường hợp của ông Phan
Văn Thiệu đến Kora Bahru ngày 22-4-1979, gia đình của ông bị hải quân Mã Lai bắt
xuống ghe lại vào ngày 11-5 và sau đó ghe bị kéo ngược ra hải phận quốc tế. Trong
năm ngày lênh đênh vô định trên biển, họ phải uống nước tiểu để tránh cơn khát sau
khi hết nước ngọt. Trẻ em bắt đầu chết dần, và số còn lại cùng người lớn trên ghe có
thể chết hết nếu họ không được tàu Sibonga cứu kịp thời. Thuyền trưởng Healey Martin
đã diễn tả lại thảm cảnh tuyệt vọng trên ghe của ông Phan Văn Thiện như sau.(13)

'Phụ nữ và trẻ em trên chiếc ghe với bề dài 20 thước và bề ngang 3 thước kêu gào được
giúp đỡ; không khí trên ghe, vốn được chia ra thành 2 tầng để tận dụng hết trọng lượng
của nó, thật khủng khiếp.. Tình trạng bệnh tật, thiếu thực phẩm và nước ngọt kéo dài
cộng với điều kiện ghê tởm mà họ phải chung đụng rác rến cũng như nước tiểu đã làm
suy nhược và đẩy họ vào tình trạng sức khỏe rất yếu kém. Nếu chỉ cho họ trữ thực thì
chẳng khác nào bỏ nhiều người cho tử thần.'(14)

Ðối với một số thuyền nhân, tình trạng thiếu dầu máy cũng là một trong nhiều khó khăn
nan giải; trước sau gì trữ lượng dầu dùng chạy máy cũng phải cạn nếu ghe không đến
được bờ bến tự do đúng theo dự tính của tài công lúc khởi hành. Lênh đênh trên mặt
đại dương mịt mù không lối thoát tương tự như đang chờ đợi tử thần đến với sự tàn
phá của sóng gió thiên nhiên. Một vấn nạn khác liên quan trực tiếp đến máy ghe vốn
thường là máy cũ được tân trang vài tuần trước ngày ra khơi cho nên dễ bị trục trặc bất
thình lình trên biển. Sự kiện ghe bị 'trời trồng' phải dậm chân tại chỗ vì máy hư không
sửa được và thuyền nhân chỉ còn cách chắp nối bao vải để làm buồm hầu tiếp tục
chuyến hải trình không phải là hiếm; và nếu không đến được đất liền an toàn trong một
thời gian ngắn thì người tị nạn khó tồn tại lâu dài trên ghe. Chiếc thuyền dài 7 thước
của anh Phan Công Trang, 18 tuổi, rời Ba Xuyên vào ngày 12-4-1983 và được dự tính là sẽ đến Thái Lan hay Mã Lai trong vòng đôi ba ngày. Gần hai tuần trên biển, ghe của
anh Phan cũng chưa đến được bờ tự do. Tất cả thực phẩm, nước ngọt cũng như dầu
máy đều hết sạch. Vào ngày thứ 13, chiếc ghe bị sóng đánh tan thành những mảng lớn.
Anh Phan may mắn bám vào được một thùng nhựa rỗng và trôi lênh đênh khoảng hai
ngày trước khi được một tàu thương mại của Na Uy cứu đưa về Manila, Phi Luật Tân.
Anh Phan Công Trang may mắn đã không phải ăn thịt người vì lý do sinh tồn. Vào tháng 4-1982, 11 người vượt biên từ Nha Trang bị lạc hướng phải trôi dạt trên biển gần hai tháng. Tình trạng thiếu thực phẩm và nước ngọt khiến 6 người mất mạng. Số người còn lại trên ghe phải ăn thịt đồng loại để sống cho đến khi được tàu biên phòng Hồng Kông cứu vào tháng 6-1982. Chuyến vượt biên của ông Trần T. Bá còn khủng khiếp hơn nữa.
Trong một lá thư viết cho thân nhân, ông Trần cho hay là ghe của ông rời bến Bạch
Ðằng vào ngày 1-10-1978 với 178 người. Bốn ngày sau chiếc ghe đâm vào một cồn san
hô không ra được;(15) và một tuần sau đó, tất cả trữ thực trên ghe cạn hết. Em của
ông Trần tên Thành chết vào ngày 3-11. Trước khi được tàu Ðài Loan cứu khỏi cồn san hô vào ngày 18-11, một số người trên cồn đã phải ăn thịt đồng loại; ông Trần xác quyết
là ông đã không phạm vào những hành động tuyệt vọng đó nhờ vào ý chí của ông.(16)

                                 Ghe tị nạn bị sóng dập gần bờ biển Mã Lai.
                                           (Ảnh: UNHCR's K. Gaugler)

Thực trạng hãi hùng đến từ tai ương thiên nhiên, chướng ngại vật ngầm của biển cả,
trữ thực giới hạn và trở ngại máy móc đã dẫn đến nhiều kết cục thương tâm cho thuyền
nhân Việt Nam. Các hậu quả thê thảm này là những di sản tác hại ít nhiều do thiên
nhiên chi phối cho nên khó tránh được, nhưng một yếu tố tổ chức quan trọng khác
đáng lẽ phải được chú ý kỹ lưỡng vì ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mệnh thuyền nhân lại
thường ít được lưu tâm đúng mức đó là kỹ năng hàng hải của tài công. Nhiều người
được giao trách nhiệm lèo láy ghe tị nạn vượt đại dương chưa hề đặt chân lên thuyền ra
khơi, và dĩ nhiên là họ không bao giờ có kinh nghiệm làm tài công trong quá khứ. Nhu
cầu bí mật kiếm tài công giỏi của nhóm tổ chức vượt biên và nhu cầu ra đi tàn ẩn trong
một số cá nhân thiếu khả năng tài chánh đôi lúc gặp nhau ở những điểm khó hiểu. Sự
sợ hãi cơ chế đàn áp cộng sản đã khiến nhiều người tự xưng từng là sĩ quan hải quân
Việt Nam Cộng Hòa với hy vọng sẽ được - và một số người đã được - móc nối vào các tổ chức vượt biên; họ sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm tài công mặc dầu biết là mình có
ít, hoặc chưa từng có, kinh nghiệm hàng hải. Hành động thiếu thành thật này đặt sinh
mệnh của thuyền nhân trên ghe vào vị trí nguy hiểm cận tử không cần thiết, nhưng
cũng may mắn là sự kiện tài công 'dỏm' xảy ra tương đối ít.

※ Source: Thuyền Nhân: Ấn Tích Lịch Sử  ۩  Lloyd Duong Ͼ 2000

___________

Chú thích:

9 Bảo tố từ Ðông Hải thổi vào Việt Nam đã gây ra nhiều thiệt hại trầm trọng trong quá
khứ. Vào năm 1904, hai nhịp cầu Trường Tiền đã bị gió cuốn mất; và vào năm 1955,
250 cây cột điện ở Hà Nội bị bão đánh gẫy.
10 Ngoại trừ một số ít sĩ quan hải quân Việt Nam Cộng Hòa và tài công chuyên nghiệp
được huấn luyện kỹ lưỡng, đa số các tay lái ghe khác không biết cả những kỹ thuật hay
ám hiệu liên lạc quốc tế căn bản nhất cần thiết cho một cuộc hải hành liên quốc gia, và
dĩ nhiên là khả năng ngoại ngữ của họ rất yếu kém.
11 Danh từ 'những cái hòm nổi' ('floating coffins') được Bộ Trưởng Ngoại Giao Singapore
là Rajaratnam sử dụng tại Hội Nghị Bộ Trưởng Ngoại Giao ASEAN vào tháng 6-1979 để
mô tả tình trạng bi thảm của các ghe thuyền tị nạn Việt Nam.
12 Các trục dầu khoang ngoài biển của các công ty như Exxon ở phía nam Thái Lan hay
đông bắc Mã Lai đã giúp đỡ rất nhiều ghe tị nạn và cứu giúp hàng ngàn thuyền nhân lạc
trên biển.
13 Quoted in Bruce Grant, The Boat People: An Age Investigation, Penguin Books,
Middlesex, England 1979, at p. 68.
14 'Women and children on the twenty metres long by three metres wide boat were
screaming for help; the smell on the boat, which was tier-decked for maximum capacity,
was terrible. The weather had been fresh south-westerly for the previous four-eight
hours. Prolonged sickness, lack of food and water and the horrible way the people were
crowded together in their own dirt and urine had reduced them to a very weak physical
condition. Merely to give them stores would have been to condemn a large number of
people to death.'
15 Các đảo san hô, đặc biệt là trong hải phận Phi Luật Tân, đã trở thành những chướng
ngại vật giết người cho ghe tị nạn Việt Nam. Trong trường hợp của Trần H. Huệ, ghe
của cô rời Cần Thơ vào tháng 9-1978 với 50 thuyền nhân. Ghe của cô đã bị mắc cạn
trên một đảo san hô gần Palawan. Sau 5 tháng bị kẹt trên đảo, thực phẩm cạn lại không
có nước ngọt, 49 thuyền nhân qua đời và cô Huệ là người duy nhất may mắn được cứu
sống.
16 Vào ngày 14-11-1979, báo People's Journal ở Phi Luật Tân tường thuật là dân săn
bắn địa phương tìm thấy 60 xác người cùng vật dụng cá nhân và một chiếc ghe tương
tự như ghe tị nạn Việt Nam tại một khu rừng hẻo lánh cách thủ đô Manila khoảng 75
dặm về phía Nam.

Chỉ khoảng 3 thập niên trước những phụ nữ này đã phải bỏ nước ra đi vì chế độ CSVN
kỳ thị đàn áp. Họ bị hải tặc bắt cóc và đày đọa trên đảo Khra: These Vietnamese women had hidden from the pirates in caves on Khra Island for fear of being raped. They had been forced to stand in knee deep sea water for days, during which sea crabs ate away much of the flesh of their feet and legs. 

II. Untrustworthy Boats, Amateur Navigators and the Deadly Dangers on High Seas

To reach the nearest haven outside of Socialist Vietnam, the boat people had to cross the Gulf of Thailand or the huge South China Sea, which are definitely not peaceful for boating novices. The region’s oceanic weather is harsh and full of deadly typhoons blowing over 100 miles per hour and destroying anything on their paths. Typhoons are occasional incidents in the area during the summer months, but the region is also wrecked regularly by the Gulf of Thailand’s southwest monsoon that bombards the sea route from Vietnam to Thailand and Malaysia with its endless, hazardous rains and powerful winds for almost 6 months from April to September. As the southwest monsoon calms down, the northeast torrent with perilous downpours and mighty gusts begins to sweep the South China Sea and attacks the seaway from Vietnam to Hong Kong and Japan.

Nature’s obstacles, however, do not end with the rough weather. A web of coral isles, reefs and atolls form underwater hazardous barriers that run for miles west and south-west of Palawan Island in the Philippines. Many refugee boats ran aground on these reefs and islets, and the Asylees often tried to survive on a diet of oysters, sea gulls and shellfishes while waiting for rescue; but when help failed to come by, the refugees eventually perished on the isles. In September 1978, a boat of 50 Vietnamese including Ms. Tran H. Hue was stranded on a coral isle for 5 months. Except for Ms. Tran H. Hue, all others died of thirst and hunger.

In most cases, the asylum-seekers headed out to the sea on fragile boats to face gigantic oceanic dangers unprepared with neither proper navigational equipment nor appropriate piloting abilities. Their navigational tools in many instances were a map ripped out from an old geography textbook and a compass manufactured for use on land only. The map was clearly imprecise, and the land-use compass lost its accuracy when operated in the ocean. No boat was ever equipped with life jackets or buoys on board in preparation for emergencies; and thus when the craft sunk, everyone died if not rescued on time.

In addition to unsuitable nautical equipment, the boats used by Vietnamese refugees were mostly unseaworthy and had to be destroyed after they reached shore. Many boats were built for traveling on rivers and canals only but were piloted to the angry sea on the deep ignorance of oceanic dangers.  A lot of vessels were no more than 10 feet in width and 30 feet in length but carried an incredible large number of refugees. In some instances, even small canoes were used by the asylum-seekers to flee Socialist Vietnam. In most cases, there was not enough room for all people on the boats. Thus, the men often had to stay out either on the roof or wherever they could find resting space. Women and young children had to sit up with their legs folded in the lower compartment of the boats, where at times would be filled with seawater several inches high. Seasickness reflected by the throw-ups and medicated oil’s scent as well as children’s urine and cries due to thirst or hunger added to the depressing atmosphere on the boats a dreadful smell of death.

The boat people’s fragile vessels, once described as ‘floating coffins,’[1]wandered into the deadly dangers on high seas often with limited supplies. Fresh water was definitely never enough for all refugees, and accompanied food reserve was always inadequate. Rations could only be imposed so long as water and foods were still available. Once the supplies dried up, the boat people’s only hope was to be rescued or to reach shore or a petroleum rig soon.[2] In the case of Mr. Phan Væn ThiŒu who landed on Kora Bahru in Malaysia on April 22, 1979, his family and he were put on a boat and pulled out to international waters by a Malaysian Navy ship on May 11. When left in the open sea, fresh water quickly ran out and the refugees had to drink urine instead. Five days later, the children began to die, and more would pass away if they were not rescued by the Sibonga, whose Captain Healey Martin later wrote in his log:[3]

‘Women and children on the twenty metres long by three metres wide boat were screaming for help; the smell on the boat, which was tier-decked for maximum capacity, was terrible. The weather had been fresh south-westerly for the previous four-eight hours. Prolonged sickness, lack of food and water and the horrible way the people were crowded together in their own dirt and urine had reduced them to a very weak physical condition. Merely to give them stores would have been to condemn a large number of people to death.’

As for many boat people, fuel shortage represented another major problem. Diesel for boat engines would eventually run out if the refugees failed to arrive at their destination of freedom on time. Wandering aimlessly in the huge ocean could only mean sure death in the face of hazardous downpours and perilous winds. A further problem concerned the aged boat engines, which often developed problems after several days of non-stopped operations. There were countless cases in which the refugee’s vessels had to be navigated with homemade sails because the mechanical problems could not be repaired.

The escape of Phan Công Trang,aged 18, illustrates the dire consequence of logistic disasters. Phan left Ba Xuyên, Vietnam, on April 12, 1983 with family relatives and neighbors on a 7-meter-long boat that had one motor. After 3 days at sea, the escapees ran out of fuel, food and fresh water. By day 13, their boat was smashed into pieces by gigantic waves. Everyone on board vanished except Phan, who managed to stay afloat for two days by holding onto a jerrycan. Eventually, Phan was rescued by a Norwegian ship and taken to Manila, Philippines.

Phan Công Trang was fortunate not to commit cannibalistic acts to survive. In April 1982, the horrible escape of 11 refugees from Nha Trang ended up lost a sea for nearly two months. Out of fuel, fresh water and food, the boat wandered aimlessly, and hunger and thirst claimed six lives. The remaining members on board became cannibals in order to survive their ordeal until their rescue in June 1982 by the Hong Kong coast guard. 

An earlier escape of TrÀn T. Bá was even more terrified. In a letter to his uncle and aunt, TrÀn T. Bá wrote that he left Båch ñ¢ng port on October 1, 1978 on a boat carrying 146 passengers. After four days at sea, the boat ran aground on a coral isle and could not steer out.[4] They ran out of supplies a week later. TrÀn’s brother, Thành, died on November 3. Until the arrival of a Taiwanese fishing vessel on November 18, the isle was a dreadful scene of cannibals. In his letter, TrÀn T. Bá insisted that he was able to survive without taking part in these desperate acts.[5]

Apparently, harsh weather condition, hidden sea obstacles, limited stores and engine troubles were behind many unimaginable calamities faced by the boat people. These problems were understandable and particularly unavoidable; however, what incredible was the amateur skills of some self-proclaimed captains, many of whom had never piloted a boat at sea in their lives. The urgent need for experienced captains and the exit need of refugees sometimes met in awkward situations. The fear of communism outweighed the risk of personal death and forced some boating amateurs to portray themselves as accomplished pilots in order to take part in an escape. They would accept the captain’s job knowing that their navigational skills were limited or, at times, non-existent; this irresponsible, but understandable, action placed the lives of others on the same boat at extremely high risks. Fortunately, however, situations as aforementioned were isolated and few.

 

※ Source: Thuyền Nhân: Ấn Tích Lịch Sử  ۩  Lloyd Duong Ͼ 2000

___________


[1] The term ‘floating coffins’ was first mentioned by Singapore’s Rajaratnam to describe the Vietnamese boats during the annual Ministerial Meeting of ASEAN foreign ministers in late June 1979.


[2] Offshore petroleum rigs in southern Thailand or off the north-east coast of peninsular Malaysia operated by oil companies such as Exxon had been havens for thousands of Vietnamese refugees, whose fragile boats might not even reach safety but for the existence of the nearby rigs.


[3] Quoted in Bruce Grant, The Boat People: An Age Investigation,Penguin Books, Middlesex, England 1979, at p. 68.


[4] Coral isles, especially those in the Filipino water, are deadly obstacles for many boats. In the case of Ms. TrÀn H. HuŒ, who left Vietnam from CÀn ThÖ in September 1978 on a boat consisted of 50 refugees, she was the only survivor after the vessel ran aground on a coral isle near Palawan Island. The unfortunate refugees tried desperately to survive on a diet of oysters, sea gulls and shellfishes but, except for Ms. TrÀn H. HuŒ,most eventually died. Ms. TrÀn H. HuŒ was rescued after 5 months living on the coral isle.


[5]  On November 14, 1979, the People's Journal in the Philippines reported that local hunters found skeletons and personal items of 60 dead bodies and a wooden boat believed to be a Vietnamese refugee craft in an isolated forest 75 miles south of Manila. 

III. Thảm Trạng Nhân Tạo: Hải Tặc Dã Man . Barbarous Piracy

Một trong các kinh nghiệm khủng khiếp suốt hải trình kinh hoàng của thuyền nhân Việt
Nam là thảm trạng hải tặc. Tình trạng lộng hành của hải khấu trong vùng Ðông Hải hayvịnh Thái Lan không mới lạ bởi vì ngay từ thế kỷ 16, các nhà thám hiểm Anh quốc từng báo cáo về hoạt động của chúng từ vận chuyển hàng lậu, thuốc phiện đến cướp bóc
thương thuyền. Tuy nhiên, tệ nạn hải tặc trong vùng Ðông Nam Á chỉ bắt đầu được
cộng đồng quốc tế lưu ý sau khi thảm trạng thuyền nhân Việt Nam được giới truyền
thông toàn thế giới tường thuật vào cuối thập niên 1970.
Một số thống kê xác định là số lượng ghe tị nạn bị hải khấu tấn công lên đến 70%-80%,
nghĩa là cứ 5 ghe vượt biên thì 4 chiếc đã bị cướp. Một vài con số về tệ nạn hải tặc được
Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc lưu giữ từ năm 1980 tuy thiếu chính xác (những nạn
nhân bị hải tặc giết không còn sống để được 'thống kê') nhưng cũng có thể phác họa
một hình ảnh khủng khiếp về sự tàn ác của hải tặc đối với thuyền nhân; chỉ trong vòng
3 năm từ 1980 đến 1983, 2.283 phụ nữ bị hãm hiếp, 592 vụ bắt cóc và 1.376 nạn nhân
bị hải tặc giết.(17) Như đã phân tích ở phần trên, thống kê về tệ nạn hải khấu khó có
thể bao gồm tất cả các sự kiện cướp bóc trên biển mà người tị nạn Việt Nam là nạn
nhân bởi vì có ghe xấu số đã bị hải tặc giết sạch trong mục đích phi tang chứng tích cho
nên không còn người sống sót để tường thuật lại số phận bi thảm của họ.
Ða số hải khấu là dân đánh cá Thái Lan và Mã Lai mang ý nghĩ là thuyền nhân Việt Nam đem theo nhiều vàng cũng như tài vật đắt giá. Bọn cướp biển dùng dao búa và thỉnh thoảng cả súng để tấn công người tị nạn không vũ khí trong tay. Chúng thường đi từng nhóm hai hoặc ba thuyền lớn để bảo đảm sự thành công của vụ cướp ghe hoặc để giảm thiểu xác suất thất bại nếu gặp sự chống đối của thuyền nhân.

Ghe tị nạn bị hải tặc Thái tấn công

Sự phản kháng của người tị nạn Việt Nam ít khi xảy ra bởi vì thuyền nhân thường không
mang theo vũ khí, và đa số suy nghĩ là tài vật không quan trọng bằng mạng sống cho
nên họ sẵn sàng mất số quý kim đem theo để bảo toàn bản thân. Mặc dầu việc thu mua
súng đạn ở Việt Nam không khó lắm nhưng phần đông người vượt biên tránh mang
theo vũ khí để không bị công an khép tội 'phản động' trong trường hợp chuyến đi bị
'bể.' Song song, thuyền nhân ít khi chống đối hải tặc do quan niệm quý kim là tài vật
tạm thời có thể kiếm lại sau này nếu còn sống trong khi đó mạng sống mang tính cách
trường cữu nếu mất đi thì mất tất cả. Tuy vậy, hải trình lịch sử của thuyền nhân vẫn có
nhiều vụ phản kháng cá nhân rất hào hùng nhưng gặp thất bại và dẫn đến cái chết của
một số dân tị nạn. Trong vài trường hợp khác, nhiều ghe tị nạn đã biết sử dụng sức
mạnh thanh niên, trái sáng và thỉnh thoảng cả súng trường, lựu đạn để đe dọa hải tặc
khiến chúng phải rút lui.
Trong một vụ phản kháng nổi tiếng toàn thế giới, 19 thuyền nhân bao gồm Bác sĩ
Dương Chi Lăng, Trần Xuân Vinh, Lê Quang Phương, Hứa Thiện Hùng, Âu Diêu, Khuất Há Chảy, Ðoàn Văn Khuyên, Trịnh Duy Phước, Hồ Minh Tâm, Châu Chí Cường, Huỳnh Công Danh, Nguyễn Anh Lợi, Trần Khắc Ðức, Huỳnh Quốc Tuấn, Quan Chí Cường, Huỳnh Trưng Thuần, Trần Chánh Thành, Lê Văn Uyên và Dương Hán Minh đã đánh chiếm luôn thuyền hải tặc Thái Lan sau khi chúng tấn công họ, hãm hiếp phụ nữ rồi đâm chìm ghe tị nạn. Câu chuyện không dừng ở đó mà còn dẫn đến các khúc quanh trớ trêu khi các nạn nhân thông báo cho cảnh sát Thái Lan về hành động cướp bóc dã man của bọn hải tặc trên thuyền Lakha 12, họ đã bị bắt và khép vào tội sát nhân. Nhiều cơ quan quốc tế lên tiếng phản đối việc cầm tù họ, đặc biệt là từ giới truyền thông Pháp,
Hội Tương Trợ Tị Nạn Á Châu và tổ chức Y Sĩ Phi Biên Giới. Sau một năm trời vận động,
Bangkok chấp thuận phóng thích nhóm người tị nạn anh hùng này vào tháng 12-1981.
Một thuyền nhân trong nhóm, ông Lê Văn Uyên, sắp mất mạng vì bệnh đau ruột nếu
ông không được thả đúng lúc và đưa vào bệnh viện để điều trị ngay lập tức.
Sự dã man của hải tặc thật khó tưởng tượng, và hành động tàn bạo của chúng đối với
thuyền nhân Việt Nam ít khi nghe đến trong suốt thế kỷ 20. Bọn cướp biển tìm đủ mọi
cách để tước đoạt vàng bạc của người tị nạn; chúng xét họ nhiều lần để tìm kiếm các
vật tùy thân có giá trị. Bọn hải tặc sẵn sàng chặt đứt ngón tay của nạn nhân để lấy
nhẫn hay nhổ răng bọc vàng để lấy quý kim.(18) Bất cứ sự chống đối nào của nạn nhân cũng đem đến cái chết của họ; sự kiện bọn cướp biển cắt cổ hay đập đầu nạn nhân rồi quăng thây xuống biển xảy ra rất thường xuyên. Tàn nhẫn hơn nữa là một số hải tặc 

hung bạo sẵn sàng giết sạch mọi người trên ghe để phi tang; chúng dùng thuyền lớn để
đâm vào ghe tị nạn mỏng manh nhằm dìm chết tất cả các nạn nhân.
Một bản tường trình của CUTNLHQ có ghi lại vụ cướp biển đã xảy ra vào tháng 12-1985 khiến 50 thuyền nhân bị mất mạng trong tay hải tặc Mã Lai: '80 thuyền nhân đa số từ khu vực thành phố HCM trốn khỏi nước cộng sản vào ngày 12-12 với hy vọng sẽ đến Mã Lai. Sau bốn ngày trên biển, họ bị một thuyền đánh cá chặn lại và vui vẻ hứa giúp đưa họ đến Mã Lai. Hai người đàn ông, một phụ nữ và ba trẻ em được mời sang thuyền đánh cá sau đó chúng kéo chiếc ghe Việt Nam theo. Năm giờ sau một thuyền đánh cá thứ hai đến chở khoảng 20 hải tặc mang súng dao và cây sắt nhảy sang ghe Việt Nam và bắt đầu xét thuyền nhân để cướp vàng và quý vật. Tất cả đàn ông trên 17 tuổi bị ném xuống biển, ngay cả hai thanh niên được mời sang thuyền đánh cá trước đó. Ða số đã bị chết đuối bởi vì họ không thể bơi. Các phụ nữ bị hãm hiếp. Sau khi bọn hải tặc bỏ đi, một người đàn ông còn sống nhờ bám vào một thùng dầu leo trở lại ghe với 28 phụ nữ và trẻ em rồi giúp họ giăng cánh buồm.'(19)

Hải tặc thường hoạt động trong vòng đai 18 ngàn dặm vuông bao quanh tỉnh Songkhla
nằm phía nam Thái Lan. Bangkok chỉ có hai tàu biên phòng tuần hành khu vực này cho
nên đoạn biển rộng lớn này trở thành một vùng phi pháp. Trong tháng 9-1981, tàu Cap
Anamur đã ngăn cản kịp thời một vụ cướp ghe tị nạn của 5 thuyền hải tặc Thái Lan.

Chiếc ghe Việt Nam chở 95 người rời Cà Mau được khoảng 100 cây số thì bị hỏng máy.
Sau khi lênh đênh 2 ngày trên biển, ghe tị nạn bị bọn Thái khấu tấn công; chúng bắt 33
trẻ em và 22 phụ nữ sang thuyền đánh cá rồi kéo ghe tị nạn về một hướng vô định. Bọn 

hải tặc đang lục xét các nạn nhận để tước đoạt quý kim thì tàu Cap Anamur xuất hiện
và giải thoát ghe tị nạn. Chính quyền địa phương đã được thông báo về vụ cướp này
nhưng không có chuyện gì xảy ra đối với bọn hải khấu.

Vào ngày 30-4-1981, ủy ban Chống Hải Tặc ra đời ở Geneva bao gồm nhiều tổ chức
nhân đạo phi chính phủ như Terres des Hommes, Médecins Sans Frontierès, Médecins
du Monde, Écoles Sans Frontierès, Protection de l'Enfant Réfugié, Sentinelles, Bateau Ile de Lumière, v.v. Sau năm tháng làm việc, ủy ban gởi một con tàu ra khơi để ngăn chận hải khấu và cứu vớt thuyền nhân Việt Nam.
Trong phạm vi công quyền, chủ trương của Kuala Lumpur và Bangkok là ngăn chận làn
sóng thuyền nhân hơn là các hành động tàn bạo của hải tặc; vì vậy cho nên nhiều quan 

sát viên đã nghi ngờ là Mã Lai và Thái Lan có chính sách sử dụng bọn cướp biển như
một vũ khí bán chính thức để xua đuổi người tị nạn khỏi vùng duyên hải. Nhằm bảo vệ
thuyền nhân Việt Nam, CUTNLHQ đã cung cấp cho Thái Lan một tàu biên phòng (mua
giá $160 ngàn Mỹ kim từ Tân Gia Ba) vào tháng 5-1980 và khuyến khích Bangkok nên 

tích cực kiểm soát vùng biển phía Nam. Vào năm 1981, Thái Lan được Hoa Kỳ viện trợ
$2 triệu Mỹ-kim để tiến hành chương trình chống hải tặc; số tiền này được sử dụng để
mua 2 máy bay thám thính và sửa 1 tàu tuần hành. Vào khoảng tháng 6, Thái Lan đe 

dọa là sẽ ngưng hẳn chương trình này khi yêu cầu xin thêm $1.3 triệu Mỹ-kim bị cắt
xuống còn $600 ngàn Mỹ-kim; sau đó, Bangkok miễn cưỡng chấp nhận một ngân khoản
$3.6 triệu Mỹ-kim hàng năm do CUTNLHQ đề nghị với sự đóng góp của 12 quốc gia
nhằm tiếp tục chương trình chống hải tặc.

Với nguồn tài trợ mới, đội đặc nhiệm bài trừ hải tặc được tổ chức và trang bị 3 tàu tuần
hành, 3 ghe tị nạn 'giả mồi' và 2 máy bay thám thính. Mặc dầu trên lý thuyết, tổ đặc
nhiệm chống cướp biển của Bangkok hiện diện như một thực thể có khả năng tiến hành 

nhiều chiến vụ quan trọng; trong thực tế, tổ chức đó hình như chỉ hoạt động hời hợt.

Một trường hợp thương tâm đã xảy ra đối với một ghe tị nạn vào tháng 11-1982. Trong
khi thuyền nhân trên chiếc ghe xấu số đang bị 4 thuyền đánh cá Thái Lan chận cướp, một máy bay thám thính xuất hiện và xua đuổi đám hải tặc. Nhưng sau đó chiếc máy
bay biến mất thay vì bảo vệ nhóm thuyền nhân cho đến khi họ được cứu vớt; khi không
còn ai ngăn cản chúng, bọn cướp biển trở lại hiện trường để tiếp tục hành hạ nhóm nạn
nhân Việt Nam và bắt đi 12 phụ nữ.

Thái Lan từ chối không chấp nhận bất cứ sự giúp đỡ trực tiếp nào của các quốc gia khác
trong chiến dịch bài trừ tệ nạn hải tặc. Bangkok viện cớ là hải quân Hoàng Gia Thái có
khả năng giải quyết hải nạn này nếu được tài trợ dồi dào - càng nhiều tiền càng tốt!  Hồ 

sơ lưu trữ liên quan đến lãnh vực này cho thấy là, trong khi đang thực hiện chiến dịch
chống hải khấu, chính quyền Thái tiếp tục hăm dọa đóng cửa tất cả các trại tị nạn để
ngăn cản làn sóng thuyền nhân. Bangkok tuyên bố là sẽ đối xử với dân tị nạn Việt Nam
đến Thái Lan sau ngày 15-8-1981 như những kẻ nhập cảnh bất hợp pháp và sẽ đóng 

cửa các trại tạm trú vào năm 1982. Công dân Thái bị cấm không được giúp đỡ thuyền
nhân trong tình trạng hiểm nghèo trên biển, và họ bị hăm dọa với các hình phạt chế tài
nếu vi phạm. Chính sách ngăn ngừa làn sóng tị nạn Việt Nam của Bangkok khiến các 

quan sát viên khách quan không ngạc nhiên khi thấy tệ nạn hải khấu gia tăng vượt bực
sau mỗi thông báo chống thuyền nhân của chính quyền Thái.
Trong 5 năm đầu của chiến dịch bài trừ hải tặc, đội đặc nhiệm Thái Lan chỉ bắt được 30
tên cướp biển. Với sự giúp đỡ của nhóm bài trừ hải khấu Hoa Kỳ và các cố vấn của 

CUTNLHQ, đội đặc nhiệm Thái Lan hoạt động hiệu quả hơn vào năm 1986 và bắt thêm
được 50 tên cướp biển; 21 trong số 50 tên phạm nhân bị kết án từ 3 năm tù đến tử
hình.(20) Thống kê chính thức cho thấy số lượng thuyền nhân bị cướp giảm từ 70%-

80% trong năm 1980 xuống còn 44% trong năm 1986 và 30% trong năm 1987.
Mặc dầu tệ nạn hải tặc tấn công thuyền nhân Việt Nam vẫn tiếp tục cho đến giữa thập
niên 1990, nhưng vào năm 1988 đội đặc nhiệm bài trừ hải khấu hình như không còn 

hoạt động tích cực bởi vì chính quyền Thái dồn nỗ lực thực hiện chính sách đẩy lui, thay
vì ngăn chận, làn sóng tị nạn Việt Nam. Nỗ lực thám tính 52 hòn đảo ngoài khơi - một
số đảo này từng được hải tặc dùng để giam giữ thuyền nhân - bị cắt giảm. Nỗ lực chống
hải tặc của CUTNLHQ và Hoa Kỳ cũng giảm thiểu vì hình như các chính quyền và tổ 

chức quốc tế không còn quan tâm đến việc bảo vệ thuyền nhân Việt Nam. Một nhân
viên cứu trợ đã cho đại diện Ủy Ban Luật Sư Vị Nhân Quyền có văn phòng tại Hoa Kỳ
biết.21) 'Thật là buồn cười khi bàn về chuyện bài trừ hải tặc khi chính quyền Thái đang 

làm tất cả những gì họ có thể làm được để ngăn chận ghe tị nạn đến (đất Thái).
Chương trình bài trừ hải khấu hoạt động một cách lượm thượm, ở phía Ðông và Nam.
Và nỗ lực quốc tế thám thính dọc miền duyên hải và các đảo hoàn toàn không có.'(22)
Vào năm 1988, hải quân Thái Lan tiếp tục nhận nhiều triệu Mỹ-kim để bảo vệ thuyền 

nhân nhưng, theo một số báo cáo, đã được Bangkok sử dụng trong chính sách đẩy lui
làn sóng tị nạn Việt Nam.(23) Vào ngày 27-6-1988, tàu biên phòng Thái đã kéo 3 ghe tị nạn với 61 người trên đó ra hải phận quốc tế; sau đó bọn lính trên tàu xả đạn bắn vào ghe. Hai thanh niên may mắn sống sót nhưng lại bị bắt giam rồi chuyển giao cho Hà Nội
sau đó trong chiến dịch cưỡng bách hồi hương. Trong một vụ khác, chính hải quân
Hoàng Gia Thái đã đưa các thuyền nhân xấu số vào nanh vuốt cướp biển. Vào ngày 11-
5-1988, 79 người tị nạn sống sót đến được Mã Lai cho hay là họ bị hải quân Thái bỏ lên ghe và kéo ra biển. Các tàu đánh cá Thái đã chờ đợi sẵn và, sau khi tàu biên phòng
khuất bóng, ập vào cướp cũng như hãm hiếp phụ nữ trên ghe.

Ủy Ban Luật Sư Vị Nhân Quyền đã điều tra chương trình bài trừ hải tặc của Thái Lan vào năm 1988 và sau đó đưa ra các ý kiến xây dựng sau đây với hy vọng có thể giải quyết một số tệ nạn được thành viên Ủy Ban bạch hóa.(24)


'a) Chính quyền Thái nên cho nhân viên chống cướp biển và bảo vệ (tị nạn) của
CUTNLHQ và Hoa Kỳ phỏng vấn người tị nạn ngay lập tức sau khi họ đặt chân lên đất
Thái hay các hòn đảo và chia xẻ tin tức liên quan đến hải khấu. Việc gặp gỡ người tị nạn
sớm có thể giúp cho nỗ lực truy tố hải tặc được dễ dàng hơn.
b) Nhân viên tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ nên thường xuyên thám thính miền duyên hải Thái Lan, và hệ thống hóa mạng lưới thâu thập tin tức. Việc thám sát các hòn đảo ngoài khơi nên được tiến hành và nhân viên bổn xứ với khả năng đa ngôn ngữ nên được sử dụng..'(25)


Bởi vì chính quyền Thái Lan do dự trong nỗ lực kiểm soát vùng duyên hải nhưng lại tích
cực thực hiện chính sách cưỡng bức hồi hương, sự tàn bạo của hải tặc trong các vụ
cướp bóc giết hại thuyền nhân Việt Nam gia tăng với một tốc độ khủng khiếp. Bọn hải
khấu dã man đã không nương tay đối với thuyền nhân và sẵn sàng giết sạch các nạn
nhân trên ghe nhằm phi tang tất cả chứng tích. Số lượng ghe tị nạn bị cướp may mắn
sống sót gia tăng trong khi số lượng cướp biển bị bắt lại rất ít; tuy vậy, một sự kiện
đáng ghi nhớ là trong đám phạm nhân bị giam cầm có một số lính hải quân Thái
Lan(26) - vốn mang trọng trách giữ gìn an ninh biên phòng - đã bị các thuyền nhân tố
cáo với chứng cớ hùng hồ là những tên hải tặc mặc quân phục hoàng gia.

  

※ Source: Thuyền Nhân: Ấn Tích Lịch Sử  ۩  Lloyd Duong Ͼ 2000

___________

Chú thích:

17 Theo bài nói chuyện của Michel Moussalli, Giám Ðốc Bảo Vệ Cuộc của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, tại Ðại Hội các Tổ Chức Thương Hải (Assembly of Maritime
Organizations) ở Luân Ðôn vào ngày 8-11-1983.
18 Chồng của bà Lương B. Châu bị hải tặc Thái chặt ngón tay để lấy chiếc nhẫn vàng và sau đó giết chết vào tháng 10-1978. Sau khi cướp sạch quý kim, bọn hải tặc đã hãm
hiếp phụ nữ rồi dùng thuyền của chúng để đâm vào mạng ghe. May mắn là các người tị
nạn còn sống sót đã giữ cho ghe số KG-0729 tiếp tục nổi, và cuối cùng họ dạt được đến
đảo Bidong, Mã Lai.
19 'The 80 Vietnamese, mostly from Ho Chi Minh City region, fled their communist
country Dec. 12 (1985) in the hope of reaching Malaysia. After sailing for four days, they were stopped by a fishing boat with an apparently friendly crew who offered to help them get to Malaysia. Two men, one woman and three children were invited to come on board the fishing boat which then took the Vietnamese craft in tow. Five hours later a second fishing boat arrived which about 20 pirates armed with knives and iron bars, boarded the Vietnamese boat and began searching the people for gold and valuables. All men above the age of 17 were thrown into the water, even the two who had been invited aboard the 'friendly' ship. Most of them drowned because they could not swim.
The women were raped. After the pirates left, a man who had managed to keep floating
by holding on to a jerycan joined the 28 women and children aboard and helped them
to put up a sail again.' '50 Vietnamese boat people killed by pirates, UN aide says,'
Boston Globe, December 26, 1985.
20 Một hải tặc tên Mesa Sukchan bị tòa tỉnh Songkhla kết án tử hình vào năm 1986 về
tội cướp biển, cưỡng hiếp và giết thuyền nhân Việt Nam. Ba cộng tác viên của hắn bị kết án tù từ 15 đến 22 năm. Theo 'Court gives death sentence for piracy,' Bangkok
World, 13 December 1986.

21 Refuge Denied, Lawyers Committee for Human Rights, 1989, New York, at p.85.
22 'It is ludicrous to talk about anti-piracy when the Thai government is doing all it can
to prevent boats from coming. Anti-piracy is in shambles, in the east and the south. And
international coverage of the coast and the islands is non-existent.'

23 '50 Boat People Apprehended,' Bangkok Post, February 28, 1988.
24 Refuge Denied, Supra, at pp.6-7.
25 'a) The Thai government should grant full access to the UNHCR and U.S. Embassy
anti-piracy and protection officers to interview refugees immediately upon arrival in
Thailand or the islands and coordinate and share information on piracy. Immediate
access will facilitate the prosecution of offenders.
b) U.S. Embassy personnel should on a regular basis monitor Thailand's border and
coastlines, and develop a system of reliable information contacts. Routine searches of
the islands should be conducted and indigenous employees with multi-lingual capabilities
need to be used..'

26 Vào tháng 5-1978, một ghe tị nạn gồm 30 thuyền nhân Việt Nam đã bị tàu tuần cảnh Thái Lan chận cướp. Bọn lính Thái tước đoạt vàng, hảm hiếp phụ nữ rồi bắn vào ghe ra lệnh cho thuyền nhân phải rời hải phận Thái. Sau đó không lâu, ghe trôi dạt đến
Songkhla, và đồng bào trên ghe đã tố cáo hành động cướp của hiếp người này nhưng

chính quyền Bangkok tỏ vẻ không tích cực điều tra vụ án. Trong một vụ khác, 6 cảnh
sát Thái đã bị bắt vào ngày 17-6-1979 về tội tấn công cướp của, hiếm dâm thuyền nhân
gần làng Nakhon Si Thammarat nhưng sau đó chúng được phóng thích vì 'thiếu bằng

chứng.' 

III. Barbarous Piracy

One of the most calamitous occurrences during the boat people’s tragic journey is the cruel pillage on high seas. Piracy in the South China Sea and the Gulf of Thailand is nothing new; as far into history as the 16thcentury, there were reports by British explorers of operations by local pirates, who smuggled drugs, illegal products and occasionally raided trading vessels. Piracy in Southeast Asia, however, only became an international concern when the boat people tragedy was published worldwide in the late 1970s. Some accounts put the statistics of piracy against Vietnamese Asylees as high as 70%-80%, i.e. four out of five boats encountered sea plunderers. Records of robbery on the high seas were collected from 1980 onward; and of the reported cases, the statistics showed within three years from 1980 to 1983, there were 2,283 rape incidents, 592 abductions and 1,376 murders committed by the pirates.[1] The statistics, however, did not include countless cases wherein all escapees on board were slaughtered, and thus no witness survived to report their tragedy. 

Most of the pirates were Thai and Malaysian fishermen, who believed the boat people were rich escapees with lots of gold and hidden valuables. They attacked the helpless asylum-seekers with knives and hammers and, at times, guns. The robbery against any single boat often involved two or more bigger vessels to ensure success or, at least, to minimize damages in case of strong opposition. 

Resistance against the pirates was sporadic because the majority of boats did not carry arms, and most escapees saw their lives worth more than their personal belongings. Although it was not too difficult to obtain contraband firearms in Socialist Vietnam, most boat people preferred to escape without even a small pistol because, in case the endeavor failed, they would face more severe punishments if found in possession of weapons. Moreover, Vietnamese Asylees had long realized that the loss of life would be permanent while the loss of valuables was only temporary; thus, they rarely tried to repel the pirates’ attacks. However, there are eye-witnessed cases of heroic opposition wherein the resisting boat persons were brutally murdered by the better-armed plunderers. There are also reported incidents wherein some bigger refugee boats did use their sheer force of men’s muscle, emergency flares and, at times, grenades to successfully ward off the pirates.

In one celebrated case, nineteen boat persons, namely Dr. DÜÖng Chi Læng, TrÀn Xuân Vinh, Lê Quang PhÜÖng, HÙa ThiŒn Hùng, Âu Diêu, KhuÃt Há Chäy, ñoàn Væn Khuyên, TrÎnh Duy Phܧc, HÒ Minh Tâm, Châu Chí CÜ©ng, Huÿnh Công Danh, NguyÍn Anh L®i, TrÀn Kh¡c ñÙc, Huÿnh QuÓc TuÃn, Quan Chí CÜ©ng, Huÿnh TrÜng ThuÀn, TrÀn Chánh Thành, Lê Væn Uyên, DÜÖng Hán Minh, fought back and took over the ship of Thai pirates, who robbed them, raped the women and drowned their boat. Ironically, they were indicted by Bangkok on murder charges and then imprisoned when they reported the brutal pirates' attack to the Thai authorities. International outcry over the charges, particularly from the French media, Association d’Aides des Réfugiés d’Asie and Médecins Sans Frontières, pressured the Thai government into releasing the detained boat people in December 1981. One of the incarcerated Asylees, Mr. Lê Væn Uyên, would have died from an ulcer if he was not discharged on time and carried by ambulance to a nearby hospital for immediate medical attention.

The pirates’ cruelty is unprecedented and their atrocious conducts against the boat people are unheard of in the 20th century. They would try every means to rob a boat person of his or her personal belongings. They searched everyone repeatedly and thoroughly in their hunt for valuables. The buccaneers would be prepared to cut off fingers if a ring were not loosened out.[2] They would pull out gold-plated teeth in order to extract the precious metal. Any opposition from the boat people would result in immediate execution. There are confirmed reports that people had their necks slashed and thrown overboard. And worse, to eradicate all traces of evidence, the pirates at times used their huge vessels to repeatedly slam smaller refugee boats to drown all victims on board.

One UNHCR’s report described an incident in December 1985 wherein 50 boat people were murdered by Malaysian pirates:[3] ‘The 80 Vietnamese, mostly from Ho Chi Minh City region, fled their communist country Dec. 12 (1985) in the hope of reaching Malaysia. After sailing for four days, they were stopped by a fishing boat with an apparently friendly crew who offered to help them get to Malaysia. Two men, one woman and three children were invited to come on board the fishing boat which then took the Vietnamese craft in tow. Five hours later a second fishing boat arrived which about 20 pirates armed with knives and iron bars, boarded the Vietnamese boat and began searching the people for gold and valuables. All men above the age of 17 were thrown into the water, even the two who had been invited aboard the ‘friendly’ ship. Most of them drowned because they could not swim. The women were raped. After the pirates left, a man who had managed to keep floating by holding on to a jerycan joined the 28 women and children aboard and helped them to put up a sail again.’

The pirates operated mostly in an 18,000-squared-mile area surrounding the Thai southern province of Songkhla. Bangkok had only two old coastguard ships to patrol this entire area, and thus the region was virtually a no-man territory. In September 1981, the West German ship Cap Anamurintercepted and stopped a group of 5 Thai ships that were robbing a Vietnamese boat carrying 95 people. The boat was just about 100 miles from Cape Ca Mau when its engine broke down. The craft floated aimlessly for two days before it was seized by Thai pirates, who moved 33 children and 22 women over to one of their ships and towed the Vietnamese craft with 40 men on board to an undetermined destination. The buccaneers then searched the refugees and confiscated all gold pieces and valuables. Fortunately, before the pirates could do physical damages to the Asylees, the Cap Anamur came on scene and freed the boat people under attack. Various reports were filed with the local authorities concerning the robbery but nothing happened to the Thai fishermen.

Text Box: The pirates’ cruelty is unprecedented and their atrocious conducts against the boat people are unheard of in the 20th century.  They would try every means to rob a boat person of his or her personal belongings. Any opposition from the boat people would result in immediate execution. And worse, to destroy all traces of evidence, the pirates at times used their huge vessels to repeatedly slam smaller refugee boats to drown all victims on board.

On the sixth anniversary of the fall of Saigon, the Against Piracy Action committee was incepted on April 30, 1981 in Geneva and composed of many well-known humanitarian organizations such as Terres des Hommes, Médecins Sans Frontierès, Médecins du Monde, Écoles Sans Frontierès, Protection de l’Enfant Réfugié, Sentinelles, Bateau Ile de Lumière, etc. Five months later, the APA commissioned a ship to intercept the pirates’ operations and rescue Vietnamese boat people in Southeast Asia.

In political circles, Kuala Lumpur and Bangkok’s official policy was to deter the boat people’s arrival, and presumably not the pirates’ violence. It was widely suspected that Malaysia and Thailand were using the buccaneers as a secret weapon to dissuade and stop the refugee movement. To protect Vietnamese Asylees from the pirates’ attacks, the UNHCR provided Thailand with an unarmed patrol vessel (cost US$160,000) in May 1980 and encouraged Bangkok to take initiatives to exert effective control over its territorial waters. In 1981, the Thai government received $2 million from the United States to establish an anti-piracy program; the fund was used to acquire 2 surveillance airplanes and repair 1 coastguard ship. Subsequently, Thailand threatened to kill the program after a request for an additional $1.3 million in June was reduced to $600,000. Bangkok later accepted the UN-proposed annual payment of $3.6 million contributed by 12 countries to maintain its anti-piracy campaign.

With new financial resources in place, Bangkok’s special anti-piracy force was formed with three patrol ships, three small ‘bite’boats and two surveillance planes. Despite the impressive man-and-machine power, the Thai anti-pillage works appeared to have been undertaken superficially. In one sad instance in November 1982, one of the two planes reportedly intercepted an attack on a Vietnamese boat by four Thai ships; but when the plane disappeared behind the skyline instead of remaining at the scene until help arrived, the buccaneers returned and continued their robbery and subsequently abducted 12 women from the boat. 

Thailand refused any direct help from foreign countries to contain and eliminate the pirates’ operations. Bangkok decided that its Navy could handle the problem and all it needed was cash – a lot of cash. The record shows that, while the anti-piracy program was operating, the Thai government continued to publicly threaten to shut down all refugee shelters and to prevent the boat people’s arrivals. Bangkok announced that it would indict as illegal aliens all Vietnamese Asylees, who reached Thailand after August 15, 1981, and close all its refugee camps in 1982. Thai citizens were prohibited from helping Vietnamese refugees at sea and would face stiff penalties for offering assistance to the boat people in distress. In light of these factual realities, it is therefore not surprised to see a significant rise in reported cases of oceanic pillage after each anti-refugee announcement by Bangkok.

During the first five years in operation, the anti-piracy campaign apprehended only 30 pirates. With the assistance of a U.S. regional anti-piracy unit and UNHCR consultants, the program became more effective in 1986 with 50 arrests and successful prosecution of 21 criminals, whose sentences ranged from 3-year incarceration to death.[4] Statistics of pirates' attacks on the boat people also declined from as high as 70%-80% of arriving boats in 1980 to 44% in 1986 and 30% in 1987. 

Although the pirates’ barbarous raids on the defenseless boat people continued into the 1990s, however, the anti-piracy program destined to doom in 1988 because once again Bangkok implemented its push-backpolicy with increased intensity. Routine searches of 52 islands, on which the buccaneers previously imprisoned arriving boat people, were reduced to virtually nil. Unfortunately, international efforts by the UNCHR and the U.S. also appeared to have lost interests in protecting the Asyleess from the pirates’ violence. A relief official told representatives of the Lawyers Committee for Human Rights that:[5] ‘It is ludicrous to talk about anti-piracy when the Thai government is doing all it can to prevent boats from coming. Anti-piracy is in shambles, in the east and the south. And international coverage of the coast and the islands is non-existent.’ 

In 1988, the Thai anti-piracy unit continued to receive millions from the UNHCR to protect the boat people but was allegedly used by Bangkok to implement its push-back policy.[6] On June 27, 1988, Thai patrol vessels towed 3 boats consisted of 61 refugees out to international waters. The soldiers then opened fire at the refugees and caused the boats to sink. Two young Aylees, who survived the ordeal, were detained and subsequently repatriated to Socialist Vietnam.  In another reported incident, the Thai Navy was responsible for delivering the helpless refugees into the hands of pirates. On May 11, 1988, 79 survivors, who arrived in Malaysia after being pushed out by Bangkok, recounted that the pirates were patiently waiting for their boat. As soon as the Thai patrol vessel left the scene, the buccaneers immediately raided the boat and raped the defenseless women on board.

The U.S.-based Lawyers Committee For Human Rights conducted a review of the Thai anti-piracy program in 1988 and recommended the following actions to address many serious problems that its investigators uncovered: [7]

‘a) The Thai government should grant full access to the UNHCR and U.S. Embassy anti-piracy and protection officers to interview refugees immediately upon arrival in Thailand or the islands and coordinate and share information on piracy. Immediate access will facilitate the prosecution of offenders.

b) U.S. Embassy personnel should on a regular basis monitor Thailand’s border and coastlines, and develop a system of reliable information contacts. Routine searches of the islands should be conducted and indigenous employees with multi-lingual capabilities need to be used…’

As a result of Bangkok’s hesitance to enforce its law on the high seas and the Thai government’s insistence to deport all refugees, the brutality of the pirates’ attacks on the boat people rose sharply. The buccaneers began to systemically destroy incriminating evidence of their robberies by murdering all unfortunate victims on board. Despite the rise in the number of attacks and reports by surviving boat people, there were very few arrests. It is imperative to note, however, among those few pirates who were indicted, there were several Thai Navy officers[8] - supposedly responsible for safeguarding the seaway - implicated by the surviving refugees for taking part in cruel pillages on the high seas.

  

※ Source: Thuyền Nhân: Ấn Tích Lịch Sử  ۩  Lloyd Duong Ͼ 2000

___________

    

[1] According to UNHCR Director of Protection Michel Moussalli’s speech to the Assembly of Maritime Organizations in London on November 8, 1983.


[2] LÜÖng B. Châu’s husband was murdered and thrown overboard by Thai pirates in October 1978. Before clubbing him to death, the buccaneers chopped his finger off in order to get the gold ring. After robbing the refugees of all valuables and raping the women, the pirates steered their ship to ram the KG-0729 causing heavy damages to its wooden body. Miraculously, the surviving boat people managed to keep the KG-0729 afloat and eventually got to Bidong Island, Malaysia, a few days later.


[3] ‘50 Vietnamese boat people killed by pirates, UN aide says,’ Boston Globe, December 26, 1985.


[4] A pirate named Mesa Sukchan was sentenced to death by the Songkhla provincial court in 1986 for pillaging, raping and killing of Vietnamese boat people. His three associates received sentences ranging from 15 to 22-year imprisonment. See ‘Court gives death sentence for piracy,’ Bangkok World, December 13, 1986.


[5] Refuge Denied, Lawyers Committee for Human Rights, 1989, New York, at p.85.


[6] ’50 Boat People Apprehended,’ Bangkok Post, February 28, 1988.


[7] Refuge Denied, Supra, at pp.6-7.


[8]  In one reported case, a Vietnamese boat carrying 30 refugees was intercepted and brutally robed by a Thai police vessel in May 1978. Several women were raped, and the boat was subsequently ordered to lease Thai waters. Eventually, the refugees managed to reach Songkhla and later filed a formal complaint but Bangkok failed to investigate the incident diligently. In another case, 6 Thai policemen were arrested on June 17, 1979 on charges of robing and raping Vietnamese refugees nearly the coastal town Nakhon Si Thammarat; however, they were later released due to 'lack of evidence' even though they were identified and reported by the victims.

IV. Thảm Kịch Hải Tặc Bắt Cóc Người Việt Tỵ Nạn

Thiệt hại vật chất không có nghĩa gì khi so sánh với bi kịch mất người thân trên biển cả
mà nhiều gia đình thuyền nhân phải chịu đựng trong đau khổ. Hải tặc không chỉ trấn lột
quý kim mà còn hãm hiếp và bắt cóc phụ nữ cũng như thanh nữ Việt Nam. Con bị
cưỡng dâm trước mặt cha mẹ; vợ bị xâm phạm tiết hạnh trước mặt chồng; nhưng cơn
ác mộng khủng khiếp nhất cho bậc cha mẹ hay khổ phu xảy ra khi con hay vợ bị hải
khấu bắt đi mất tích. Từ giây phút đó trở đi, những người sống sót bị tủi nhục cả đời bởi
vì mặc cảm không thể bảo vệ được người thân. Họ luôn tự hỏi tại sao họ đã nhẫn tâm
đem vợ con ra biển để đối đầu với các hiểm nghèo của bể cả và nhận lãnh một kết cuộc
thật thê thảm. Họ cảm thấy hối hận cả đời còn lại bởi vì họ còn sống mà số phận hẩm
hiu của vợ con kém may mắn thì không biết ra sao.
Chỉ trong 6 tháng đầu của năm 1981, 701 vụ hải tặc tấn công ghe tị nạn đã xảy ra và
145 thanh nữ Việt Nam đã bị cướp biển bắt đi. Một cô gái may mắn sống sót sau cơn ác
mộng kinh hoàng là Nguyễn Phương Thúy, 15 tuổi. Cô Thúy và em cô, Trân, cùng 66
người khác vượt biên vào ngày 19-5-1981 trên một chiếc ghe dài khoảng 10 mét. Hai
ngày sau, họ bị hải tặc Thái Lan tấn công dã man. Sau khi trấn lột sạch vàng và quý kim của nạn nhân, chúng bắt Thúy và một cô gái đi theo rồi dùng tàu đánh cá đâm chìm
chiếc ghe tị nạn mỏng manh; tất cả các nạn nhân còn trên ghe kể cả bé Trâm đều bị
chết đuối. Trong suốt 3 tháng rưỡi sau đó, Thúy và cô gái bị bắt chung đã trở thành nô
lệ tình dục của bọn hải tặc. Họ bị hãm hiếp mỗi ngày và bị mua đi bán lại giữa các tàu
đánh cá ít nhất là 14 lần. Tàu đánh cá thứ 15 đã tống khứ họ xuống một bãi hoang và
sau đó họ bị lính Thái giam giữ vì tội nhập cảnh bất hợp pháp. Trong tù, Thúy gặp một
cô gái khác tên Nguyễn T. Lan, 25 tuổi, cũng từng bị hải tặc cầm tù như nô lệ tình dục
trên một hòn đảo ngoài khơi nhiều ngày. Sau khi được phép nhập trại tị nạn Songkhla,
Thúy đã viết thư về cho mẹ và các cô để khẩn cầu họ đừng bao giờ vượt biên bằng ghe
bởi vì kinh nghiệm bản thân của cô quá hãi hùng. Một sự kiện hơi trớ trêu là chính
quyền Thái Lan - trên lý thuyết đang tiến hành chiến dịch bài trừ hải tặc - qua ban quản
trị trại đã cấm không cho cô Thúy kể lại kinh nghiệm đau thương của cô cho các ký giả
ngoại quốc.
Danh sách của nạn nhân bị hải tặc bắt cóc rất dài và khó có thể được hoàn tất đầy đủ
bởi vì nhiều gia đình đã bị cướp biển giết sạch nhằm phi tang bằng cớ tội lỗi cho nên
lịch sử mất đi chứng nhân. Ðinh Ngọc Lệ Thủy, sinh ngày 22-2-1967, bị hải khấu Thái
bắt ngày 8-12-1986 trước mặt thân mẫu; mẹ cô hiện đang sống tại thành phố Garden
Grove, California. Dư Tuyết Mỹ, sinh ngày 20-1-1962, đã bị bắt cóc ngày 13-1-1982.
Nguyễn Thị Diễm, sinh ngày 25-12-1966, bị cướp biển cưỡng ép lên tàu đánh cá của
chúng và đưa đi mất tích vào ngày 16-2-1984. Phạm Thị Khuê Lương, sinh ngày 1-1-
1967, và Phạm Thị Yến Ly, sinh ngày 26-10-1968, rời Rạch Giá ngày 24-5-1988 và sau đó bị hải tặc Thái bắt cóc ngày 27-5-1988. Trong trường hợp của Tăng Bích Hằng, gia đình cô hứa thưởng $10 ngàn Mỹ-kim cho bất cứ ai có thể cung cấp tin tức về hiện
trạng của cô.
Chúng ta không thể biết được bao nhiêu phụ nữ và thanh nữ Việt Nam đã bị hải tặc bắt
cóc, nhưng chúng ta có thể chắc chắn là số lượng nạn nhân bị cướp đi thật khủng
khiếp. Trong số nạn nhân bị mất tích trên đường tìm tự do có Tăng Bích Hằng, Nguyễn
Thị Thu Nguyệt, Phạm Ngọc Bích Thủy, Võ Thị Cẩm Nhung, Nguyễn Thị Mỹ Dung, Phạm Thị Ngọc Bích, Phạm Thị Ngọc Hạnh, Nguyễn Thị Ngọc Anh, Diệp Mỹ Linh, Nguyễn Thị Hiền, Hoàng Thị Kim Chi and Hoàng Thị Kim Dung, Quách Lê Nương, Lê Thị Kim Hồng, Huỳnh Kim Phụng, Ðinh Thị Như, Nguyễn Thị Ðắc Tâm, Nhữ Thị Thiên Kim, Vũ Thị Thanh Thảo, Nguyễn Thanh Thủy, Ðặng Thị Quỳnh Hoa, Ðặng Thị Quỳnh Như, Tiến Xuân Mai, Nguyễn Thị Cẩm Hồng, Bửu Nghị Liêu, Ðỗ Hoàng Dung, Vũ Xuân Phụng, Nguyễn Diễm Hương, Võ Thị Tuyết, Bảo Trân, Tạ Thị Kim Hoàn, Trần Mỹ Hằng, Lệ Nguyễn Trúc Mai, Phạm Thị Sương Liễu, Phạm Thị Trúc Ly, Phạm Thị Ngọc Luyện, Châu Yến Linh, Trần Bích Thủy, Trần Thị Mỹ, Ngô Thị Liễu, Tống Mỹ Hạnh, Nguyễn Thị Kiều Dung, Nguyễn Thị Kiều Phương, v.v.
Ða số các nạn nhân bị hải tặc giết sau một thời gian bị giam cầm như nô lệ tình dục
nhằm tiêu hủy tất cả các chứng cớ tội lỗi. Trong một số trường hợp, vài phụ nữ đã bị
bán vào các động mãi dâm Thái Lan. Cô Nguyễn Thị Trương bị hải tặc Thái bắt cóc,
hảm hiếp và cuối cùng tống xuất vào đường dây mãi dâm ở phía Nam Thái Lan. Vào
tháng 9-1979, cô Trương trở thành nô lệ tình dục của Heavenly Pleasure Massage Club
và bị bắt buộc phục vụ du khách Tân Gia Ba, Nhật Bản tại các khách sạn như Rado
Hotel hay Seiko Hotel.(27)

 ◙  Rất nhiều ghe tị nạn đã không đến được bờ tự do và hàng trăm ngàn người Việt tỵ nạn đã mất mạng trên biển.

Trong một trường hợp khác, cô Nguyễn Ánh Tuyết cùng chị là Nguyễn Thị Nam rời Nha Trang vào ngày 8-12-1979. Khi ghe bị hết dầu máy phải lênh đênh trên biển nhiều
ngày, tình trạng thiếu nước ngọt dẫn đến cái chết của 12 trẻ em. Vào ngày 21-12-1979,
họ bị hai tàu đánh cá Thái Lan tấn công. Cô Nguyễn Thị Nam bị đám cướp đập đầu và
quăng thây xuống biển. Sau khi tước đoạt hết tài vật và quý kim, bọn hải khấu kéo
chiếc ghe tị nạn đến giam lỏng tại đảo Khra và bắt đi ba cô gái xấu số trong đó có
Nguyễn Ánh Tuyết. Một trong ba cô gái có tên là Lan đã bị giữ trên tàu thứ nhất và số
mạng của cô ấy đến hôm này vẫn không ai biết ra sao. Nguyễn Ánh Tuyết, 17 tuổi, và
Công Huyền Tôn Nữ Mỹ Kiều, 17 tuổi, đã bị hải khấu trên tàu thứ hai giam giữ trong
một khách sạn ở Songkhla. Khi một tên hải tặc định hãm hiếp cô, Nguyễn Ánh Tuyết cự
tuyệt và khóc la lớn. May mắn cho Tuyết là tiếng khóc thét của cô thu hút được sự chú
ý của du khách ngoại quốc trú ngụ cùng khách sạn, và họ đã can thiệp kịp thời để giải
thoát cô. Qua lời khai của hai cô Tuyết và Kiều, cảnh sát Thái bắt được bọn cướp biển
sau đó. Trong khi lấy khẩu cung, bọn hải tặc thú thật với cảnh sát là chúng dự định bán
hai cô vào một ổ mãi dâm ở Songkhla.

Các thuyền nhân khác còn sống sót trên ghe của cô Nguyễn Ánh Tuyết bị giam giữ như
nô lệ trên một hòn đảo hoang không người sinh sống ở phía đông nam Thái Lan có tên
là đảo Khra (Koh Khra hay Freckle Island) cách vùng Phak Phanang khoảng 43 miles
hay 69 cây số. Khra là một địa ngục trần gian cho những thuyền nhân bị hải tặc tấn
công rồi dẫn độ về đó để giam cầm sau khi phá hỏng ghe của họ. Các người tị nạn thiếu
may mắn đó không còn cách nào trốn khỏi hòn đảo nô lệ; họ bị cô lập hoàn toàn và dần
dần lệ thuộc vào bọn cướp biển để có thực phẩm và nước uống.
Khi một ghe tị nạn Việt Nam bị kéo về đảo Khra, hình như tất cả hải khấu trong vùng
đều biết về sự hiện diện của nhóm thuyền nhân bất hạnh do tin của tàu bắt cóc truyền
đi qua làn sóng vô tuyến. Các ngày sau đó, một vài tàu đánh cá ghé qua đảo để hành
hạ nhóm người vượt biên Việt Nam xấu số; bọn cướp biển đánh đập thanh niên và hãm
hiếp phụ nữ kể cả trẻ em - có những bé gái chỉ mới 11 hay 12 tuổi. Thanh nữ Việt Nam
trên đảo cố gắng ẩn núp trong các bụi rậm hay hang hốc mỗi khi hình dáng khủng khiếp
của tàu đánh cá Thái xuất hiện trên chân trời. Những hành động ghê tởm tàn ác của
bọn cướp biển đã khiến họ khiếp đảm cho nên họ phải trốn tránh trước khi chúng đặt
chân lên đảo. Nhiều cô gái núp trong các hang ổ ngặp đầy nước mặn; chân của họ bị
cua biển cắn nát nhưng họ phải cắn răng chịu đựng vì khiếp sợ sự hung bạo gướm guốc
của hải tặc. Mỗi khi bọn cướp biển lên đảo, chúng trở thành những con thú săn người.
Chúng lục soát hang hốc, bụi rậm và tra tấn những người tị nạn lộ diện một cách tàn
nhẫn để tìm dấu tích của các cô gái. Vòng tròn khủng bố tái diễn và các thuyền nhân
bất hạnh lại phải chịu đựng những hành động tàn ác của bọn hải tặc mỗi khi chúng đặt
chân lên đảo.
May mắn cho một số người tị nạn bị giam giữ trên Khra là đoàn cứu trợ nạn nhân hải
tặc của CUTNLHQ thỉnh thoảng thám thính vùng đảo hoang phía đông nam Thái Lan
sau khi phác giác bi kịch thuyền nhân bị hải tặc giam cầm và nô lệ hóa. Các nạn nhân
được đưa vào trại tị nạn Songkhla để điều trị; nhiều cô gái phải được thuyên chuyển
đến bệnh viện Thái ngay lập tức bởi vì chỉ có dụng cụ y khoa tân tiến và thuốc men đầy
đủ mới có thể cứu sống được họ. Một số thiếu nữ phát bịnh tâm thần do kinh nghiệm
kinh hoàng mà họ đã trải qua trên các hoang đảo; dù cố gắng hết sức, họ vẫn không
thể quên đi được những hình ảnh hãi hùng trong cơ ác mộng ghê tởm vừa xảy ra.(28)
Vào năm 1980, một thống kê nhỏ do nhóm thuyền nhân trong trại Songkhla thực hiện
đưa ra những con số đau lòng sau đây:(29)

1980              Tháng 5      Tháng 6
Ghe nhập trại   41                 36
Ghe bị hải tặc cướp   36 (88%)    35 (97%)
Ghe bị dẫn độ đến Koh Khra   5 (12%)    1 (3%)
Số phụ nữ nhập trại    384    440
Số phụ nữ mới nhập trại bị hải tặc hãm hiếp   92 (24%)    55 (13%)
Nạn nhân bị giết hay mất tích trên biển
(có chứng nhân/người biết đến)   70    3

Ðịa ngục trần gian Khra được ghi lại tương đối tỉ mỉ với nhiều chi tiết thương tâm.(30)
Trong trường hợp của bà Nguyễn Thị Thưởng, gia đình bà rời Việt Nam trên chiếc ghe
số SS0640 IA vào ngày 1-12-1979. Ghe của bà đã bị hải tặc chận cướp, và sau đó toàn
thể 107 người tị nạn bị đẫn độ về đảo Khra. Khi còn cách bãi biển một đoạn xa, tất cả
thanh niên Việt Nam bị đạp xuống nước khiến 7 người bị chết đuối vì không lội nổi vào bờ. Suốt 8 ngày bị giam giữ như nô lệ trên Khra, phụ nữ bị hãm hiếp và đàn ông bị
đánh đập tàn nhẫn. Trong ngày thứ 3, một chiếc tàu mang số POLICE#513 đến đậu cách bãi biển vài chục thước nhưng không có phản ứng gì khi nghe lời kêu gào cầu cứu
khẩn thiết của nhóm thuyền nhân bất hạnh. Bọn hải tặc trở lại vào những ngày sau đó
và vòng tròn khủng bố lại tái diễn. Ðến ngày thứ 8, các nạn nhân được tàu CUTNLHQ
phát hiện và đưa về trại tị nạn Songkhla.

Với nguồn tài trợ dồi dào của cộng đồng thế giới và sự giúp đỡ của CUTNLHQ, Bangkok đã cho dựng một trạm thám thính ngay trên đảo Khra vào năm 1981 để cứu trợ nạn nhân hải tặc. Chỉ trong vòng 12 tháng, 1.250 thuyền nhân đã được giải thoát khỏi địa ngục Khra; 160 nạn nhân vô tội đã mất mạng trong khi chờ đợi được giúp đỡ. Một bản tường trình của CUTNLHQ thuật lại bi kịch kinh hoàng trên đảo như sau:
'Một phụ nữ bị phỏng rất nặng khi bọn hải tặc đốt phía đồi nơi cô ta đang lẫn tránh để
bắt cô ta phải ra. Một cô khác trốn nhiều ngày trong một hang có nước lên tận eo bụng
cho đến khi cua biển cắn nát gần hết da thịt chân của cô. Một bé gái đã qua đời sau khi
bị (bọn hải tặc liên tục) hãm hiếp và được chôn với một tấm bia tạm bợ ở bìa rừng thưa
thớt.'(31) 


Ðảo Khra không phải chỉ là một địa ngục duy nhất cho thuyền nhân Việt Nam. Tình hình trong trại tạm trú Kuku trên đảo Jemaja của Nam Dương là một cơn ác mộng hãi hùng khác cho người tị nạn. Tại Kuku, thuyền nhân bị giam giữ trong những lều quân đội trước khi được thanh lọc và cho phép di chuyển đến các trung tâm khác như trại tị nạn Palau Galang. Lợi dụng tình trạng bấp bênh của người tị nạn, về đêm lính Nam Dương thường xuyên bắt cóc và hãm hiếp phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn 1989-1990.(32)  Theo lời kể của cô Nguyễn Thị Thủy - một thiếu nữ từng bị giam giữ trong trại Kuku hiện đang sống ở Toronto, Canada - các nạn nhân và gia đình của họ không dám chống đối vì lo sợ cho tính mạng. Bi kịch ghê tởm này chỉ bị phanh phui sau khi chú của một cô gái bị lính Nam Dương đánh chết vì dám chống đối lại chúng để bảo vệ cháu mình;  cái chết thương tâm của thuyền nhân can đảm này đưa đến nhiều phản ứng bất lợi cho Jakarta trên chính trường quốc tế khiến chính quyền Nam Dương phải điều tra và ra
lệnh truy tố các hành động đê tiện của đám lính canh gác Kuku.(33)


Khra và Jemaja chắc chắn không phải là hoang đảo duy nhất có thuyền nhân bị hải tặc giam cầm, giết chóc cũng như đối xử thấp kém hơn nô lệ. Bao nhiêu hoang đảo khác
nữa trong vùng vịnh Thái Lan đã trở thành địa ngục cho người tị nạn Việt Nam? Các
chính quyền địa phương hoàn toàn không lưu tâm đến nỗ lực lâu dài cứu giúp thuyền nhân bị đày đọa tại các hoang đảo mặc dầu thỉnh thoảng toán đặc nhiệm bài trừ hải tặc
Thái Lan có ghé 52 hoang đảo mà họ tình nghi là có đồng bào tị nạn Việt Nam bị cướp
biển giam giữ (nhưng bao nhiêu tàu tuần tra như tàu số POLICE#513 kể trên có đến và
đã nghe tiếng vang lạy của nạn nhân nhưng không chịu giúp mà cũng không thông báo cho CUTNLHQ). Chính sách của các chính quyền địa phương chú trọng vào nỗ lực ngăn
cản làn sóng tị nạn Việt Nam hơn là nỗ lực bài trừ hải khấu; và vì vậy cho nên, một số
quan sát viên quốc tế suy luận rằng tàu hải tặc và các thành phần tội ác có thể đã được chính quyền địa phương bao che để trở thành những con tốt ngăn cản thuyền nhân đến
được bến bờ tự do.


  

※ Source: Thuyền Nhân: Ấn Tích Lịch Sử  ۩  Lloyd Duong Ͼ 2000
___________

Chú thích:

27 Bangkok Post, 9 September 1979.
28 Bệnh tâm thần không chỉ ảnh hưởng thuyền nhân trên đảo Khra mà còn cả những
nạn nhân đã trải qua một cuộc hải trình kinh hoàng. Ðiển hình là vào cuối năm 1979 tại
đảo Bidong của Mã Lai, khoảng 28 thuyền nhân mang bệnh tâm thần trầm trọng nhưng
trại không có điều kiện để giúp đỡ họ (đa số là phụ nữ từng bị hải tặc hãm hiếp).
29 Ibid., at p.56.
30 Một vài vụ được ghi lại trong tài liệu Pirates on the Gulf of Siam, 2nd Edi., của Nhat
Tien, Duong Phuc, Vu Thanh Thuy, Boat People S.O.S. Committee, San Diego 1981.
31 'One woman was severely burned when the pirates set fire to the hillside where she
was hiding in an attempt to flush her out. Another cowed for days in a cave, waist-deep
in water, until crabs had torn the skin and much of the flesh away from her legs. A
young girl who died after being gang raped is buried under a simple slab at the edge of
a clearing.' Quoted in Barry Wain, The Refused: The Agony of the Indochina Refugees,
supra, at p. 71.
32 Một trại tị nạn khác kinh hoàng không kém trại Kuku là trại NW82 của Thái Lan vốn giam giữ bộ nhân Việt Nam.
33 Phỏng vấn cô Nguyễn Thị Thủy vào ngày 30-11-1998 tại Lloyd Duong Attorneys
Atrium ở Toronto, Gia Nã Ðại. Cô Thủy được Ottawa bảo trợ cho định cư vì lý do nhân
đạo vào ngày 20-10-1992; quyết định này là phản ảnh hậu quả nghiêm trọng của vụ
Kuku. Cô Thủy còn cho biết là giá để cho một thuyền nhân được đậu thanh lọc tại Nam
Dương là $2.000 Mỹ kim, và họ được thông báo về hối phí này trước khi hồ sơ xin tị nạn
của họ được xét hầu có thể kịp thời chạy tiền lo lót. 

IV. Abduction and Enslavement of Vietnamese Refugees

The loss of one’s valuables means little in comparison with the loss of one’s family members. The pirates’ vicious attacks did not stop at robbing valuables but extended to the raping and abduction of women. Young girls were sexually assaulted in front of their parents; wives were raped while husbands were handcuffed. 

The worst nightmare became a reality when the buccaneers forcibly kidnapped the helpless women. From that point onward, the surviving refugees would have to live with a guilty conscience because they could not protect the disappeared victims. They constantly wondered why they risked their lives to take their loved ones to face oceanic dangers and eventually a disastrous doom. They felt at fault because they did not die in their protest against the pirates’ seizure of the defenseless women.

In the first six months of 1981, there were 701 pirates’ attacks on the boat people and more than 145 reported kidnapping cases. One of the survivors in Songkhla Refugee Camp is Ms. NguyÍn PhÜÖng Thúy, aged 15. Her baby sister named Trân and she left Vietnam with 66 others on a 33-feet-long boat on May 19, 1981. Forty hours later, the boat was savagely raided by Thai pirates. After taking all valuables from the refugees and seizing Ms. NguyÍn and another female, the pirates steered their huge ship to slam into the small Vietnamese craft and killed all people remaining on board including little Trân. During the following 3 ½ months, Ms. NguyÍn and the other woman were held captive as sex slaves and were repeatedly raped everyday. The kidnappers then sold them to other Thai ships in exchange for fishes; the victims were changed hands at least 14 times. Eventually, the 15th ship dumped them on a beach where they were subsequently arrested and held by Thai authorities as illegal aliens. In prison, Ms. NguyÍn met another unfortunate female victim named NguyÍn T. Lan, aged 25, who was also kept as a sex slave on an island off the coast of Thailand for many days. After her release to Songkhla Refugee Camp, because of her dire experience, Ms. NguyÍn wrote letters home to plead with her mother and aunts not to leave Socialist Vietnam by boat. Ironically, Ms. NguyÍn PhÜÖng Thúy was prohibited by the Thai authorities - supposedly implementing an anti-piracy program at that time - to speak to reporters about her tragic incident.

The list of abducted victims is endless. ñinh Ng†c LŒ Thûy,born February 22, 1967, was kidnapped by Thai pirates on December 8, 1986 in front of her mother; her mother now lives in Garden Grove, California. DÜ Tuy‰t MÏ, born January 20, 1962, was abducted at sea on March 13, 1982. NguyÍn ThÎ DiÍm, born December 25, 1966, was kidnapped in the Gulf of Thailand on February 16, 1984. Phåm ThÎ Khuê LÜÖng, born January 1, 1967, and Phåm ThÎ Y‰n Ly, born October 26, 1968, left Råch Giá port on May 24, 1988 and were taken away by Thai pirates on May 27, 1988. In the case of Tæng Bích H¢ng, her family offers an unconditional reward of U.S. $10,000 for information leading to her whereabouts.

We do not know how many young Vietnamese girls and women were kidnapped by the pirates, but we can be certain that the number is horrendous. Among the victims known to have disappeared in their request for freedom are Tæng Bích H¢ng, NguyÍn ThÎ Thu NguyŒt, Phåm Ng†c Bích Thûy, Võ ThÎ CÄm Nhung, NguyÍn ThÎ MÏ Dung, Phåm ThÎ Ng†c Bích, Phåm ThÎ Ng†c Hånh, NguyÍn ThÎ Ng†c Anh, DiŒp MÏ Linh, NguyÍn ThÎ HiŠn, Hoàng ThÎ Kim Chi and Hoàng ThÎ Kim Dung, Quách Lê NÜÖng, Lê ThÎ Kim HÒng, Huÿnh Kim Phøng, ñinh ThÎ NhÜ, NguyÍn ThÎ ñ¡c Tâm, Nh» ThÎ Thiên Kim, VÛ ThÎ Thanh Thäo, NguyÍn Thanh Thûy, ñ¥ng ThÎ Quÿnh Hoa, ñ¥ng ThÎ Quÿnh NhÜ, Ti‰n Xuân Mai, NguyÍn ThÎ CÄm HÒng, Bºu NghÎ Liêu, ñ‡ Hoàng Dung, VÛ Xuân Phøng, NguyÍn DiÍm HÜÖng, Võ ThÎ Tuy‰t, Bäo Trân, Tå ThÎ Kim Hoàn, TrÀn MÏ H¢ng, LŒ NguyÍn Trúc Mai, Phåm ThÎ SÜÖng LiÍu, Phåm ThÎ Trúc Ly, Phåm ThÎ Ng†c LuyŒn, Châu Y‰n Linh, TrÀn Bích Thûy, TrÀn ThÎ MÏ, Ngô ThÎ LiÍu, TÓng MÏ Hånh, NguyÍn ThÎ KiŠu Dung, NguyÍn ThÎ KiŠu PhÜÖng, etc. 

The abducted victims were usually murdered after being sexually assaulted by the pirates, who often tried to destroy all evidence of their criminal activities. In a few cases, the victims were known to have been sold into prostitution. In one reported incident, Ms. NguyÍn ThÎ TrÜÖng was kidnapped, raped repeatedly and then forced to work as a prostitute at the Heavenly Pleasure Massage Club in Southern Thailand.[1]

In another case, Ms. NguyÍn Ánh Tuy‰t and her sister NguyÍn ThÎ Nam left Nha Trang on December 8, 1979. During the course of the journey, 12 children died after the boat ran out of fuel and fresh water. On December 21, the desperate refugees encountered two pirate ships.  Ms. NguyÍn ThÎ Nam was clubbed by the Thai buccaneers to death and thrown overboard. After the violent robbery, the victims were taken to Khra Island where they were kept as slaves. Three young girls continued to be held captive on the pirate ships. One of the three young women, Ms. Lan, was detained on the first ship, and her fate remained unknown. Ms. NguyÍn Ánh Tuy‰t, aged 17, and Ms. Công HuyŠn Tôn N» MÏ KiŠu, aged 17, were eventually taken by the second ship’s kidnappers to a hotel in Songkhla. When one of the buccaneers tried to rape her, Ms. NguyÍn Ánh Tuy‰t screamed aloud. Her cries attracted the attention of nearby tourists, who quickly intervened and rescued her. Eventually the Thai authorities got involved and secured the two women’s release. Upon apprehension, the pirates admitted that they were planning to sell the captive victims into the sex trade in Songkhla.

As for many other refugees, they were enslaved on several isolated and inhabited isles off the eastern coast of southern Thailand, one of which was Koh Khra (Freckle Island) 43 miles from Phak Phanang District. Koh Khra was hell on earth for a large number of boat people, who were abducted and taken there by Thai pirates. The sea terrors took the unfortunate refugees to Khra after destroying their boats and kept them prisoners. The defenseless victims had no mean to escape and were isolated completely; they soon became dependent totally on the buccaneers for food and fresh water. 

Once the helpless refugees were taken to Khra Island, all pirates quickly learned about the presence of the new prisoners from radioed information sent by the kidnappers. Thereafter, several fishing ships stopped by the isle daily to rape the women and young girls; some of these victims just turned eleven or twelve years old. As soon as the captive refugees saw the pirates’ colorful ships appearing on the skyline, they fled and tried to hide themselves in cages or bushes. They were terrified by the daily atrocious conducts and thus many went deep into the wood to avoid the bandits. Others hid themselves in small caves filled with salt water; their feet were nipped by sea crabs, but they had to swallow the pains because they feared the pirates more than anything else on earth. When the brutal fishermen came to the isle, they quickly turned into savage man hunters. They searched the wood and tortured the unlucky victims to find out others’ whereabouts. The cycle of violence and rapes reoccurred once again.

Fortunately, rescues by the UNHCR occasionally arrived. The evacuated Asylees were taken to refugee camps for medical care. A large number of women and teenage girls had to be transferred to Thai hospitals whereby only sophisticated medical techniques and drugs could save their lives. Many victims faced severe psychological problems as a result of the hellish experience that they underwent on Kra Island.[2] Despite how hard they tried to forget the ordeal, the nightmares still remained visible in their mind and continuously haunted them daily.

The Koh Khra incidents were many and well-documented.[3] In one case, Mrs. NguyÍn ThÎ Thܪng and her family left on boat no. SS0640 IA on December 1, 1979. The 107-people vessel was robed by Thai pirates, who then took the victims to Koh Khra. The men were forced to swim to shore from a far distance, and 7 of them consequently drowned. During their 8-day ordeal on the island, the women were raped and the men were tortured repeatedly. On the 3rd day, a patrol boat no. POLICE#513 anchored a few meters from shore and noticed their loud call for help but did not respond. The pirates came back the following days and continued their savage attack on the captive refugees. Eventually, the unfortunate victims were rescued by a UNHCR team and transferred to Songkhla Refugee camp in Thailand.

With international aid, Bangkok set up an observatory station on Khra Island in 1981 to rescue captive victims. During a 12-month period, 1250 boat persons were evacuated from Koh Khra, where 160 other unfortunate victims died before help arrived. A UNHCR report described some of the horrible scenes on the isle:[4] ‘One woman was severely burned when the pirates set fire to the hillside where she was hiding in an attempt to flush her out. Another cowed for days in a cave, waist-deep in water, until crabs had torn the skin and much of the flesh away from her legs. A young girl who died after being gang raped is buried under a simple slab at the edge of a clearing.’ 

In 1980, a 2-month study taken by the boat people at Songkhla Refugee Camp shows the following horrific statistics:

  

1980              May  June

 

Arriving boats  41   36

 

Arrivals were robed  36 (88%)   35 (97%)

 

Arrivals taken to Koh Khra  5 (12%)   1 (3%)

 

Female arrivers  384   440

 

Arriving rape victims  92 (24%)  55 (13%)

 

Known victims who died   or lost at sea  70   3


Khra Island was not the only hell for the boat people. A temporary camp named Kuku on Jemaja Island was another hell within the Indonesian territories. On this island where Vietnamese arrivers were held temporarily in military tents before their refugee-screening interview and subsequent transfer to other centers such as Pulau Galang refugee camp, Indonesian soldiers often kidnapped female Asylees and gang raped the victims at nights between 1989 and 1990.[5] According to Ms. NguyÍn ThÎ Thûy, a boat person encamped in Kuku camp now residing in Toronto, Canada, the victims and their families did not dare to complain to international agencies because they feared for their safety. The calamity was unfolded only after a female victim’s uncle was beaten to death by Indonesian soldiers when he resisted their beast-like attack; the uncle’s terrible fate sparked diplomatic intervention and eventually ended the Indonesian savage raids on the defenseless refugees.[6]

Khra and Jemaja Islands were certainly not the only isles whereon the boat people were detained, enslaved, raped and murdered.  How many other Khra and Jemaja Islands were there in the Gulf of Thailand? There were at least 52 islands frequented by the pirates, but the local authorities showed no interest in any prolonged search and rescue mission to evacuate Vietnamese refugees from their hellish islands. The official policy was clearly to prevent the Asylees’ arrival rather than to stop piracy; and therefore, various international observers rightly speculated that the pirates and other criminal elements were encouraged by their government’s acquiescence to deter all Vietnamese boat people from reaching safety.

    

[1] Bangkok Post, 9 September 1979.


[2] Mental illnesses affected not only the Khra victims but alsoother terrified survivors. For example, by late 1979 on Bidong Island in Malaysia, there were at least 28 Vietnamese refugees, mostly rape victims, diagnosed with serious mental problems.


[3] For documented cases, please refer to Nhat Tien, Duong Phuc, Vu Thanh Thuy, Pirates on the Gulf of Siam, 2nd Edi., Boat People S.O.S. Committee, San Diego 1981.


[4] Quoted in Barry Wain, The Refused: The Agony of the Indochina Refugees, supra, at p. 71.


[5] Kuku camp is an ugly reflection of Thailand’s NW82 camp that held Vietnamese land people.


[6] Interview with Ms. NguyÍn ThÎ Thûy on November 30, 1998 at Lloyd Duong Attorneys Atrium in Toronto, Canada. Ms. NguyÍn ThÎ Thûy was permitted to enter Canada on October 20, 1992 on humanitarian grounds as a result of the Kuku incidence.

Ðồng Bào Tị Nạn Miền Bắc . Refugees from North Vietnam

Ðồng Bào Tị Nạn Miền Bắc

  • Từ cuộc di tản khổng lồ vào Nam năm 1954 cho đến năm 1975, thỉnh thoảng một số đồng bào miền Bắc vượt thoát được gông cùm kềm kẹp của chính quyền cộng sản Hà Nội để xin tị nạn tại miền Nam. Sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn vào tháng 4-1975 đánh dấu một bước ngoặt mới trong trào lưu tị nạn cộng sản tại miền Bắc: bán đảo Ðông Dương không còn một mảnh đất an toàn cho người Việt tìm tự do ẩn náo.(43) Sự can đảm phiêu lưu của dân tị nạn miền Nam trên những chiếc thuyền mỏng manh trên biển Ðông mở ra một hướng đi mới cho đồng bào miền Bắc mang hoài vọng tự do; họ nhanh chóng thay đổi hướng vượt tuyến để chuẩn bị băng bể đến Hồng Kông hay Macao.(44)
  • Hải trình của đồng bào miền Bắc tương đối dễ dàng và ít tốt kém hơn khi so sánh với chi phí và các khó khăn nhân tạo cũng như thiên nhiên mà nỗ lực vượt biên ở miền Nam phải đương đầu.(45) Phương pháp tổ chức giữa hai miền có nhiều khác biệt lớn lao bởi
    vì, sau một thời gian dài bị chính quyền xã hội chủ nghĩa đàn áp và tước đoạt gia sản, đa số ghe thuyền miền Bắc không còn máy móc hay hải cụ đi biển; và vì vậy, đồng bào miền Bắc chỉ có cách là vượt tuyến qua Trung quốc rồi tìm cách sang Hồng Kông hay tổ chức ra đi trên những chiếc ghe cũ và nhờ vào sức gió thổi cánh buồm đến vùng đất tự do. Hải trình của đồng bào miền Bắc kéo dài khoảng 6 đến 8 tuần lễ và thường luôn luôn đi dọc theo bờ biển Trung quốc để đến Hồng Kông hau Macao; đây là những chuyến đi 'nhảy đảo' (island-hoping) bởi vì dân tị nạn trên ghe lúc nào cũng thấy được bờ và có thể cập bờ (thuộc lãnh thổ Trung quốc) bất cứ lúc nào để tránh giông tố hay mua thêm thực phẩm, dầu máy hoặc để sửa chữa ghe. Vào những năm đầu của niên kỷ 1980, Bắc Kinh xung đột với Hà Nội cho nên có chính sách dễ dãi cho thuyền nhân; và nhờ vậy, đồng bào miền Bắc có thể cập bờ một cách tự do trên đường đến Hồng Kông hay Macao.(46)


  • Vào năm 1982, chính quyền thuộc địa Anh ở Hồng Kông, nơi mà đa số đồng bào miền Bắc xin tị nạn, đưa ra chính sách trại cấm. Sau ngày 2-7-1982, tất cả thuyền nhân đến Hồng Kông được yêu cầu đọc bản thông cáo của chính quyền như sau:

'Toàn thể cựu thường dân của Việt Nam xin vào Hồng Kông từ ngày 2-7-1982 sẽ bị giam giữ trong những trung tâm đặc biệt.
Nếu quý vị không rời khỏi Hồng Kông ngay bây giờ, quý vị sẽ bị dẫn độ về một trại cấm
và giam giữ vĩnh viễn trong đó. Quý vị sẽ không được cho phép rời trại cấm trong suốt thời gian ở tại Hồng Kông. Cơ hội để được định cư rất khó xảy ra. Quý vị được tự do rời khỏi Hồng Kông ngay bây giờ, và nếu quý vị quyết định tiếp tục lên đường, quý vị sẽ được giúp đỡ.'(47)

  • Các 'trung tâm đặc biệt' của Hồng Kông là những khu tạm cư 3 giường chồng với độ cao và rộng khoảng .6mx2mx1m được ngăn bằng khăn, màn vải hay ván. Bên trong hàng rào kẽm gai của trại cấm, phương tiện sinh sống như nhà bếp hay phòng vệ sinh rất giới hạn so với số lượng đồng bào bị giam cầm. Thỉnh thoảng người tị nạn cũng được mướn làm một vài việc vặt với mức lương bóc lột; một ngày làm việc của họ được trả không quá $0,40 Mỹ-kim.
  • Vào năm 1990, một thành viên của Cơ Quan Hành Pháp và Lập Pháp Hồng Hông (the Executive and Legislative Councils of Hong Kong) đưa ra nhận định là.(48) '.. nhiều người đến Hồng Kông xin tị nạn không trốn chạy sự đàn áp cho nên không phải là dân tị nạn theo định nghĩa của Liên Hiệp Quốc. Phần đông là người Việt thay vì là người Hoa. Càng nhiều người đến từ miền Bắc Việt Nam và không có liên hệ gì với chính quyền miền Nam hay sự hiện diện của Hoa Kỳ trước đây. Họ chỉ là những thành phần tị nạn kinh tế tìm kiếm một cuộc sống khá hơn.. vào năm 1988, số lượng người đến (Hồng Kông) gia tăng đáng kể. Hơn 70% đến từ miền Bắc Việt Nam và quá 98% là dân Việt Nam.'(49) Nhận định này phản ảnh chính sách của chính quyền thuộc địa Anh ở Hồng Kông vốn xác quyết đồng bào miền Bắc toàn là dân tị nạn giả dối để tước đoạt quyền tị nạn cộng sản của họ.(50)
  • Trường hợp của ông Nguyễn Mạnh Hùng, một thuyền nhân từ miền Bắc, phủ nhận chủ trương 'quơ đủa cả nắm' hời hợt này một cách dễ dàng. Lời khai của ông Hùng về sự đàn áp của chế độ cộng sản đã bị cho là thiếu xác thực và không đáng tin cho nên đơn xin được hưởng quy chế tị nạn của ông bị từ chối. Ông Hùng đã từng vào tù ra khám nhiều năm tại miền Bắc bởi vì chính quyền Hà Nội gép ông vào thành phần phản động do các tư tưởng thiên tự do của ông. Mặc dầu ông Hùng đã kể rõ ràng và rất chi tiết về những hành động dã man mà guồng máy cộng sản thi hành để áp chế ông cùng gia đình, đơn tị nạn của ông bị bác chỉ vì ông là một người Việt Nam đến từ miền Bắc. Với sự giúp đỡ của một số luật sư thiện nguyện, ông Hùng đã kháng cáo lên Tối Cao Pháp Ðình Hồng Kông để chứng minh tệ nạn bất công cũng như kỳ thị chủng tộc của chính sách thanh lọc tị nạn Việt Nam; nhưng trước khi tòa xử vụ kháng án, chính quyền địa
    phương đã khôn khéo can thiệp và cấp cho ông Hùng quy chế tị nạn nhằm tránh một vụ xì-căng-đang lớn.
  • Trường hợp của ông Nguyễn Mạnh Hùng chứng minh hùng hồ là nhiều đơn xin tị nạn của đồng bào miền Bắc có thể bị bác bỏ một cách bất công mặc dầu họ có lý do tị nạn chánh đáng. Daniel Wolf, một luật sư Hoa Kỳ từng trợ giúp thuyền nhân Việt Nam tại Hồng Kông, có đưa ra ý kiến sau đây mà người viết chia xẻ một phần do kinh nghiệm thực tế thụ lý các hồ sơ kháng cáo tị nạn tại Ðông Nam Á:

        'Có sự trùng hợp chóa mắt giữa các hồ sơ tị nạn bị từ chối. Ðiển hình là nếu một người tin vào các lời ghi chép trong chồng hồ sơ thì hầu như mọi người xin tị nạn, bất kể sự khả tín của lời khai về sự đàn áp, đều nói rằng ông hay bà ta đã rời Việt nam để tìm một đời sống tốt hơn ở nước ngoài, và từ chối trở về bởi vì sợ bị trừng phạt vì lý do ra đi bất hợp pháp. Và khi được hỏi là họ có gì để nói thêm hay không, thì hầu như trong tất cả các trường hợp, người đứng đơn đều trả lời là 'không.'

        ...

  • Dựa theo thống kê của tôi qua hơn một trăm vụ cũng như các cuộc đàm thoại với những nhân viên làm việc trong lãnh vực này, sự thẩm định một cách bảo thủ của tôi cho thấy là khoảng 40% đến 60% người Việt trong trại cấm Hồng Kông, kể cả 30% đến 50% dân miền Bắc, đã rời bỏ Việt Nam để trốn chạy sự đàn áp và là người tị nạn theo đúng nghĩa của Công Ước 1951 và Hiệp Ðịnh Thư 1967 liên quan đến Tư Cách Tị Nạn.'(51)
  • Trường hợp của đồng bào miền Bắc cho thấy tệ nạn kỳ thị chủng tộc có thể tàn phá lòng nhân đạo của con người và đặt dân tị nạn thực sự trong tình trạng nguy hiểm khi bị từ chối và cưỡng bách hồi hương.(52) Tiến trình thanh lọc tị nạn tuyệt đối không thể được xây dựng trên chính sách kỳ thị chủng tộc hời hợt bởi vì như vậy có thể tiêu hủy tất cả các cơ hội quý báu để minh định thành phần tị nạn thật sự cũng như tạo lỗ hổng cho những kẻ ra đi chỉ vì miếng cơm manh áo lợi dụng chính sách phân biệt tị nạn dựa trên màu da hay chủng tộc để được hưởng quy chế tị nạn một cách bất công.
     

※ Source: Thuyền Nhân: Ấn Tích Lịch Sử  ۩  Lloyd Duong Ͼ 2000

___________

Chú thích:
43 Cam Bốt và Lào cũng rơi vào vòng đai kiểm soát của Cộng Sản.
44 Vào tháng 6-1979, một số nhân viên cảnh sát Macao bị tố cáo là đã cộng tác với Hà Nội trong kế hoạch buôn lậu hàng vận nhân.
45 Ðồng bào miền Bắc chỉ phải tốn khoảng từ $600 đến $700 Mỹ kim mỗi người để tổ chức ra đi trong khi đó thuyền nhân miền Nam phải chi từ $1.500 đến $5.000 Mỹ kim mỗi người. Ðộc giả cần lưu ý là số tiền $600 đến $700 Mỹ kim rất lớn đối với đồng bào miền Bắc vì lương hàng tháng của họ khoảng từ $25 đến $45 Mỹ kim mỗi người hay chỉ bằng một nữa lương của dân miền Nam.
46 Dĩ nhiên là cán bộ cộng sản Trung quốc cũng thường xuyên cho dân Tàu giả dạng thuyền nhân đi nhờ ghe Việt Nam để được hưởng quy chế tị nạn, và đồng bào miền Bắc khó mà có thể từ chối lời đề nghị của các 'mạnh thường quân.' Thực tế này không qua mắt nổi các giới chức có thẩm quyền; và một số ghe đã bị giam lâu ngày để điều tra bởi vì chính quyền Hồng Kông nghi người trên ghe là dân Tàu giả dạng thuyền nhân Việt Nam.
47 'All former residents of Vietnam seeking to enter Hong Kong since 2 July 1982 are detained in special centres. If you do not leave Hong Kong now, you will be taken to a closed centre and detained there indefinitely. You will not be permitted to leave
detention during the time you remain in Hong Kong. It is extremely unlikely that any opportunity for resettlement will be forthcoming. You are free to leave Hong Kong now, and if you choose to continue your journey, you will be given assistance to do so.'
48 Rita Fan, Hong Kong and the Vietnamese Boat People: A Hong Kong Perspective, International Journal of Refugee Law, Special Issue, September 1990, Oxford University Press, p. 144, at p.149.
49 '.. many asylum-seekers arriving in Hong Kong were not fleeing persecution and hence were not refugees by the United Nations definition. Many were ethnic Vietnamese rather than ethnic Chinese. Increasingly, they were from North Vietnam and had no association with the old southern regime or the US presence. They were simply economic migrants in search of a better life in 1988, the numbers arriving (in Hong Kong) began to raise sharply. Over 70% were from North Vietnam and over 98% were ethnic Vietnamese.'
50 Nhận định hời hợt này không phản ảnh chính xác các dữ kiện lịch sử và góp phần khơi lên ngọn lửa kỳ thị chủng tộc không cần thiết bởi vì cố tình hay vô ý quên đi là chính các kiện hàng Hoa kiều khổng lồ vào hai năm 1978 và 1979 do Hà Nội và đám
gian thương quốc tế xuất cảng đã tạo ra cơn khủng hoảng dây chuyền tại Ðông Nam Á; chính những hàng-hải nhân Hoa kiều ra đi với sự giúp đỡ của đảng Cộng Sản Việt Nam - chứ không phải thuyền nhân Việt Nam trên những chiếc ghe mỏng manh - đã bị Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc và các chính quyền lân bang đánh giá là thành phần 'di dân kinh tế' hay 'di dân bất hợp pháp.' Trên phương diện pháp lý, không chính quyền nào có thể

hay sẵn sàng cấp quy chế tị nạn cho các hàng-hải nhân Hoa kiều bởi vì họ ra đi trong sự bảo bọc của mạng lưới công an Hà Nội và qua đường dây tổ chức của đám thương cẩu Tàu ngoại quốc, tức là họ không thể bị nhà nước CHXHCN Việt Nam đàn áp theo định nghĩa tị nạn. Tuy vậy, cuối cùng họ vẫn được chính quyền lân bang đối xử thật nhân đạo nhờ thảm trạng kinh hãi trên biển cả của thuyền nhân Việt Nam đã đánh thức lương tâm nhân loại và làm chấn động lòng bác ái của các cộng đồng nhân dân thế giới.  Nhận định phiến diện kể trên bộc lộ chủ trương đánh rớt thuyền nhân, thay vì cẩn thận thẩm định hồ sơ tị nạn, cũng như sự cố tình phớt lờ qua các nguyên tắc giám định và bảo vệ dân tị nạn. Bất cứ ai hiểu sơ về luật pháp hay chính trị đều biết rằng người xin tị nạn không nhất thiết phải bám vào nguyên nhân chính trị và có thể sử dụng nhiều lý do khác điển hình như tôn giáo hay tư cách thành viên trong một tổ chức xã hội cá biệt.
Công pháp quốc tế không có điều kiện pháp lý nào đòi hỏi đồng bào miền Bắc phải 'có liên hệ gì với chính quyền miền Nam hay sự hiện diện của Hoa Kỳ trước đây' mới được xin tị nạn, và vì vậy cho nên họ có thể vẫn được bảo vệ như dân tị nạn bởi vì Hà Nội tích cực kỳ thị và tìm đủ mọi cách để tiêu diệt các thành phần xã hội có tư tưởng và đường lối sinh hoạt tự do phi Mác-xít trên căn bản tôn giáo (Phật tử, Giáo dân, v.v.), tư cách thành viên trong một tổ chức xã hội cá biệt (trí thức, thương nhân, v.v.) hay tư ý chính trị.
51 'There are also glaring similarities among the files of those who have been denied refugee status. For example, if one is to believe what is recorded in the files, nearly every asylum-seeker, regardless of the strength of the persecution claim, stated that he or she left Vietnam for 'a better living overseas,' and refused to return because of fear of 'being punished for illegal departures.' Moreover, when asked if they had any further
points they wished to make, in nearly every case applicants are alleged to have answered 'nil.' Based on my survey of more than a hundred cases and my discussions with those working in the field, my conservative estimate is that 40 to 60 per cent Vietnamese in Hong Kong's detention centres, including 30 to 50 per cent of northerners, have fled persecution in Vietnam and are refugees under the 1951 Convention and 1967 Protocol
relating to the Status of Refugees.' Daniel Wolf, A Subtle Form of Inhumanity: Screening of the Boat People in Hong Kong, International Journal of Refugee Law, Special Issue, September 1990, Oxford University Press, p. 161, at p.166-167.
52 Trong cuộc phỏng vấn với người viết tại Lloyd Duong Attorneys Atrium, một cựu Ðại Úy công an CSVN cho biết cộng đồng thuyền nhân miền Bắc có một số công an, bộ đội Hà Nội trà trộn vào để quấy phá.

Refugees from North Vietnam

  • For thirty years from 1954 to 1975, beside the mass evacuation of North Vietnamese in 1954 following the Geneva Agreement, occasionally some refugees in the North were able to escape Hanoi’s rigid control and requested protection from the South Vietnamese government. The fall of Saigon in April 1975 eliminated the last free port in Indochina for North Vietnamese, who wished to flee communist persecution and seek asylum elsewhere.[1] However, as the boat people from South Vietnam successfully overcame deadly challenges to reach their destination of freedom in strange lands, people from the North redirected their escape and gradually arrived in Hong Kong and Macao.[2]
  • Although the North Vietnamese escapes seemed to be easier and cost less than those of their southern counterpart,[3]most of their boats or so-called junks were neither motorized nor equipped with adequate navigational tools. In many cases, sailing was the only method of transportation for the northern asylum-seekers, beside walking into to neighboring China to find a way to Hong Kong or Macao. The North Vietnamese journeys usually took 6-8 weeks and could be characterized as ‘island-hoping’ because their floating junks often hugged the coastline of southern China to either Hong Kong or Macao. At no time the floating junks lost sight of land where the asylum-seekers could stop periodically for repairs and supplies as well as to drop anchor during stormy weather. It is interesting to note that Beijing allowed the ‘island-hoping’Asylees to disembark to re-supply frequently as long as they would eventually continue on to claim refugee protection in another state, which was often the British colony of Hong Kong.
  • In 1982, the government of Hong Kong, where most North Vietnamese landed, introduced legislation to imprison all arriving boat people in ‘closed camps.’ After July 2, 1982, all asylum-seekers who disembarked on the island were directed to read a posted notice:


‘All former residents of Vietnam seeking to enter Hong Kong since 2 July 1982 are detained in special centres.

If you do not leave Hong Kong now, you will be taken to a closed centre and detained there indefinitely. You will not be permitted to leave detention during the time you remain in Hong Kong. It is extremely unlikely that any opportunity for resettlement will be forthcoming.

You are free to leave Hong Kong now, and if you choose to continue your journey, you will be given assistance to do so.’


  • Hong Kong’s ‘special centres’ for the refugees were triple-decked cubicles approximating 8’x6’x3’ each and separated by wooden boards and draperies. There was no privacy, and basic facilities were severely limited. Occasionally, temporary jobs inside the camp were available at exploitative wages; a day’s work earned the refugees U.S. $0.40.
  • An official of the Executive and Legislative Councils of Hong Kong observed in 1990 that:[4] ‘… many asylum-seekers arriving in Hong Kong were not fleeing persecution and hence were not refugees by the United Nations definition. Many were ethnic Vietnamese rather than ethnic Chinese. Increasingly, they were from North Vietnam and had no association with the old southern regime or the U.S. presence. They were simply economic migrants in search of a better life… in 1988, the numbers arriving (in Hong Kong) began to raise sharply. Over 70% were from North Vietnam and over 98% were ethnic Vietnamese.’ It was incredibly absurd to predispose that North Vietnamese were bogus refugees and thus deny them asylum.[5]
  • The case of Mr. NguyÍn Månh Hùng, an Asylee from North Vietnam, easily dismissed this shallow assumption. Despite Mr. NguyÍn’s vivid and cogent accounts of communist persecution inflicted upon him, including lengthy incarcerations, for his long-held liberal view, his refugee claim was rejected for lack of credibility. Mr. NguyÍn Månh Hùng’s case was most convincing and persuasive, but the refugee screening process failed him because he was an ethnic Vietnamese from the North. When Mr. NguyÍn Månh Hùng, with the assistance of volunteer lawyers, appealed the official dismissal to Hong Kong Supreme Court in order to expose the inherent injustices and racial discrimination within Hong Kong’s refugee screening system, the local authorities quietly intervened and allowed his refugee claim because a legal defeat could cause grave public embarrassments for the government.
  • Mr. NguyÍn Månh Hùng’s case demonstrated that compelling refugee claims could be summarily dismissed due to prejudicial and erroneous assumptions about North Vietnamese asylum-seekers. American attorney Daniel Wolf, who spent some time in Hong Kong to assist the boat people, provides the following observation which this writer partly shares based on personal experience in Southeast Asia:[6]


‘There are also glaring similarities among the files of those who have been denied refugee status. For example, if one is to believe what is recorded in the files, nearly every asylum-seeker, regardless of the strength of the persecution claim, stated that he or she left Vietnam for “a better living overseas,” and refused to return because of fear of “being punished for illegal departures.” Moreover, when asked if they had any further points they wished to make, in nearly every case applicants are alleged to have answered “nil.”

Based on my survey of more than a hundred cases and my discussions with those working in the field, my conservative estimate is that 40 to 60 per cent Vietnamese in Hong Kong’s detention centres, including 30 to 50 per cent of northerners, have fled persecution in Vietnam and are refugees under the 1951 Convention and 1967 Protocol relating to the Status of Refugees.’


  • The case of asylum-seekers from North Vietnam demonstrated that racial prejudices occasionally marred human compassion and jeopardizes the flight of genuine asylum-seekers. Any true attempt to distinguish between Convention refugees and economic migrants could not be based on shallow and prejudicial foundations because this would destroy any real opportunity for genuine Asylees to present their case while allowed phony claimants to abuse the process and receive preferential protection simply on the basis of their racial composition. 


  • Addendum: Refugees from North Vietnam did not just cross the South China Sea by boats to Hong Kong or Macao, many had also made their way directly to the West in order to seek asylum. In one celebrated case, 18 persons defected from Hanoi’s trade delegation to the ‘Discover Vietnam Exhibition’ during Klondike Days, a major trade show held in Edmonton, Canada, in July 1996. This writer had the privilege to act as legal counsel for Ms. Mai ThÎ Thu Thûy, one of the defectors, before the Canadian Refugee Determination Board in Toronto. Ms. Mai ThÎ Thu Thûy was eventually granted political asylum in November 1997. The next three pages contain several letters of those asylum-seekers to the author.

  

※ Source: The Boat People: Imprints on History  ۩  Lloyd Duong Ͼ 2000

___________


[1]  Cambodia and Laos are also under communist control.

[2]  It should be noted that in June 1979, it was revealed that some Macao Security Police officers were colluding with Hanoi to transport human cargoes to Hong Kong.

[3] North Vietnamese were required to pay only U.S. $600-$700 per person for their departures in comparison to the $1,500-$5,000 per person fare in the South. It should be noted that the North Vietnamese monthly wages ranged between U.S. $25-$45, which was much less than that of their counterpart in the South.

[4] Rita Fan, Hong Kong and the Vietnamese Boat People: A Hong Kong Perspective, International Journal of Refugee Law, Special Issue, September 1990, Oxford University Press, p. 144, at p.149.

[5] This shallow observation failed to reflect historical facts accurately and incited unnecessary racial tension. Either deliberately or inadvertently this superficial view forgot that the arrivals of ethnic Chinese on huge ships organized by Hanoi and international racketeers in 1978 and 1979 caused grave concerns for the world; those fare-paying passengers – and not the Vietnamese refugees who escaped on small boats - were initially considered to be ‘economic migrants’ or ‘illegal immigrants’ by the UNHCR and all neighboring states, including Hong Kong. There was no way that these Chinese voyagers could be qualified as refugees in order to receive protection and care at the expense of the international community when they left Socialist Vietnam by open arrangement and with Hanoi’s assistance and protection; but eventually they were entitled to a humanitarian response, thanks to the well-published sufferings of the Vietnamese boat people at sea.

[6] Daniel Wolf, A Subtle Form of Inhumanity: Screening of the Boat People in Hong Kong,International Journal of Refugee Law, Sept. 1990, Oxford University Press, p. 161, at p.166-167.

___________


  VOYAGE OF THE DAMNED: THE NORTH VIETNAMESE REFUGEES

  

  • Ten years after the first international conference on Indochinese refugees in Geneva, many first-asylum governments, particularly Hong Kong, reconsidered their previous compassionate policy in light of the sudden increase in the number of arriving North Vietnamese escapees, waning resettlement offers and Hanoi’s 1986 ‘renovation’ (‘ñ°i m§i’)economic strategy which promoted foreign investments and relaxed its intolerance for non-communist ways of life.[1] In 1988, the number of North Vietnamese disembarking in Hong Kong abruptly increased five-folds to more than 18,000 from approximately 3,000 in 1987; and that number again doubled in 1989 to nearly 35,000 Asylees. Statistics collected in 1989 showed that the number of North Vietnamese in Hong Kong’s boat people population raised to 86.1% from 28% in 1984; and this factor prompted the local authorities to suspect that most Northern escapees were economic migrants in search of a better life in the West. 
  • There were also indications that Hanoi quietly encouraged the North Vietnamese to leave the socialist system by relaxing its border patrol and commissioning the cadres to convey its official message that the regime valued those families with foreign ties[2] in order (1) to ease the on-going economic difficulties because the resettled Asylees could provide financial support for their families in the North; and (2) to counter the unified pro-liberty voice of the boat people, who had been very vocal in their criticisms of Hanoi’s human rights violations. The North Vietnamese factor emerged in 1988 and worsened the boat people tragedy.
  • Despite the sudden increase in the number of escapees, resettlement capability remained limited with a significant emphasis on the admission of able and adaptable refugees. As a result, first-asylum countries felt betrayed as they were left with the ‘unwanted,’ and the official approach to resolve this residual crisis was to return the asylum petitioners to Socialist Vietnam with the U.N. stamp of approval. Pierre Jambor, UNHCR representative in Thailand, observed in February 1990 that ‘For the previous decade, the fundamental principle of first asylum in Southeast Asia had been linked to the availability of a single solution - resettlement. Asylum was therefore only as good as resettlement; a decrease in the latter inevitably threatened the former.’[3] Thus, a precondition for successfully claiming Convention refugee status was a secure resettlement opportunity that few of the escapees possessed upon their arrival at the first-asylum countries.
  • Text Box: In 1988, the North Vietnamese factor emerged and worsened the boat people tragedy.he U.S. resettlement policy was an excellent case study of how even a qualified refugee would be refused admission. Before the passing of the Refugee Act of 1980, every boat person was considered to be a bona fide refugee eligible for resettlement in the U.S. In November 1980, a research conducted by Astri Suhrke for the Joint Economic Committee of Congress characterized the newly arriving boat people as ‘low risk’ refugees who left Socialist Vietnam for economic reasons. The study caused confusion and led U.S. immigration officials to slow down the process of refugee applications. The deferral policy was rescinded later as a result of discussions between Secretary of State Alexander Haig and Attorney General William French Smith.[4]
  • The month of August 1981 saw two conflicting U.S. views on how to deal the boat people tragedy. A congressional delegation headed by George Danielson spent 4 days in Thailand to visit various refugee camps and then claimed that many boat people were economic émigrés without acknowledging the fact that Hanoi's expulsion policy was guided by political ambitions. The delegation recommended the elimination of refugee quotas but failed to suggest any option in lieu resettlement. At the other end of the pendulum, the State Department’s Special Refugee Advisory Panel urged the admission of Vietnamese boat people and Hmong Asylees be continued because the escapees were not able to go back, especially when Hanoi’s law incriminated all Asylees who fled Socialist Vietnam ‘illegally.’ 
  • On February 26, 1982, the Revised I.N.S. Processing Guidelines for Indochinese Refugees were introduced. Each application began to be evaluated separately in accordance with the Refugee Act of 1980’s refugee definition.[5] It is important to note that not all qualified refugees could gain admission into the U.S. In practice, only those Asylees who had close relatives in America, or connected to the American involvement in Indochina, or worked for the former non-communist governments could be resettled in the United States.  
  • Washington created four criteria to select Southeast Asian refugees: (1) Those persons with relatives in the United States; (2) Those escapees who participated in the U.S. operations in Indochina to qualify themselves as employees of the American government; (3) Those asylum-seekers who were persecuted or feared persecution because of past involvement with U.S.-sponsored campaigns; and (4) ‘Other refugees who because of obviously compelling reasons should be granted parole on humanitarian grounds.’ These selective criteria in addition to the admission quotas and three dozens of excluding grounds in the Immigration and Nationality Act severely restricted the boat people’s resettlement in the United States. In Hong Kong alone, U.S. immigration officers rejected up to 65% of Vietnamese boat people in late 1982; and this high failing rate continued in spite of strong objections from many voluntary agency personnel and, notably, Ambassador John Gunther Dean. Washington’s selective resettlement strategy clearly discriminated against even bona fide refugees and thus had negative effects on the policy of first-asylum countries which saw U.S. immigration requirements as a cause of their residual problem.


  • In his testimony before the American Congress in October 1981, Sheppard Lowman clarified the U.S. 'humane deterrence' policy as follows:[6]


'.. the central goal in the implementation and management of the U.S. program will be to utilize only that admission authority required to maintain first asylum and to use the forthcoming months to develop a system of humane deterrence which could act to bring down the overall requirements of the Indochinese refugee program over time to much more manageable levels.'


  • From 1982 onward, the U.S. admission of Indochinese refugees declined gradually and significantly. It appeared that as Washington felt neither political point nor economic advantage could be gained from welcoming refugees, its generosity toward the asylum-seekers greatly diminished. And consequently, those boat people who fled Socialist Vietnam in later years began to suffer from the world's lack of compassion and limited generosity.
  • In response to final-asylum countries’ selective resettlement programs, Thailand declared that, as of August 15, 1981, all incoming escapees would be incarcerated pending repatriation. As resettlement opportunities declined, the Royal Thai Navy was ordered to intercept and turn refugee boats away.[7] On January 27, 1988, Bangkok restarted its push-back policy after a surge in Hanoi-backed communist activities in Thailand and reports of a black market network run by racketeers and Thai officials to smuggle Vietnamese escapees into Trat province. On that day, Deputy Permanent Secretary of Interior Somphorn Klinpongsa presided over a forcible eviction of 40 Asylees at the Klong Yai port; he ordered that all unseaworthy refugee crafts would be ‘left to sink without receiving assistance.’[8] Bangkok began to imprison all arriving boat people, who disembarked after January 27, 1988, in a closed camp at Ban Thad near the Cambodian border, and eliminated their access to resettlement opportunities. In February 1988, Trat Provincial Governor Thongdam Banchuen stated publicly: ‘I would like to propose that first we give them warnings and if they keep coming in, we just shoot them.’ [9]
  • Hong Kong introduced legislation to incarcerate all boat people arriving after July 2, 1982 in so-called ‘special centres’ or closed camps; this action might not be directly related to resettlement countries’ admission policy but, at least, it reflected Hong Kong’s concerns in dealing with its refugee residual problem. The thin line dividing the West's selective resettlement policy and first-asylum countries’ humane deterrencestrategy was eventually eliminated by Hong Kong on June 16, 1988 with its newly-introduced refugee-screening procedures in response to the five-folded increase in the number of arriving North Vietnamese. Those escapees who passed the inquiry would qualify for resettlement, and those who failed would be repatriated - voluntarily or forcibly. 
  • Theoretically, the new screening policy's principles seemed reasonable; but in practice, its implementation was seriously flawed and the refugees’ concern for procedural fairness was validated by Hong Kong’s vexatious position pre-determining that, in contrary to all legal principles on which the refugee-screening process was supposedly instituted, one would have a better chance to claim refugee protection if he or she were an ethnic Chinese or from South Vietnam; and all other asylum-seekers, i.e. North Vietnamese, would have little chance of success.


  • A member of the Executive and Legislative Councils of Hong Kong tried to justify the new policy with the following argument:[10] 


‘It became clear both to us and the resettlement countries that many asylum-seekers arriving in Hong Kong were not fleeing persecution and hence were not refugees by the United Nations definition. Many were ethnic Vietnamese rather than ethnic Chinese. Increasingly, they were from North Vietnam and had no association with the old southern regime or the U.S. presence. They were simply economic migrants in search of a better life… in 1988, the numbers arriving (in Hong Kong) began to raise sharply. Over 70% were from North Vietnam and over 98% were ethnic Vietnamese.’ 


  • This type of observation[11]failed to reflect historical facts accurately and incited unnecessary racial tension. Either deliberately or inadvertently this view forgot that the arrivals of Chinese ship people on freighters organized by Hanoi and international racketeers in 1978 and 1979 caused grave concerns for the world; those fare-paying passengers – and not Vietnamese refugees on small boats - were initially considered to be ‘economic emigrants’ or ‘illegal immigrants’by the UNHCR and all neighboring states, including Hong Kong.[12] Legally, there was no probable way that the Chinese voyagers could be qualified as refugees in order to receive protection and care at the expense of the international community when they left Socialist Vietnam by open arrangement under Hanoi’s protection and with the overseas Chinese criminals' assistance. However, they were given a humanitarian response, thanks to the widely published sufferings of the Vietnamese boat people at sea. 
  • The aforementioned observation also demonstrated a complete ignorance of the underlying concepts of refugee protection and a propensity to fail asylum-seekers, rather than to identify and protect genuine refugees.[13] The boat people did not object to the inception of the refugee-screening process but were deeply concerned about its defective implementation influenced by political manoeuvres. Their concern for fairness was confirmed later by the incredibly high failing rates, evidence of fundamental flaws wherein hot-tempered officers conducted up to 15 interviews daily with little time to reflect on the materials and evaluate the claims’ validity, the fact that asylum-seekers received only screams and poor interpretation services instead of independent legal advice, and numerous documented cases of corruption wherein a positive decision was priced as high as U.S. $5,000.
  • Despite the refugee-screening process’ serious flaws, unfortunately, fiscal constraints and compassionate fatigue eventually led all first-asylum states to adopt Hong Kong’s new policy without instituting safeguards to ensure fairness. At a regional conference in March 1989 in Kuala Lumpur, ASEAN countries unanimously agreed that all boat people arriving after March 14, 1989 would be detained and screened before allowed to access resettlement services. The cancerous injustice that grew within the refugee-screening procedures in Hong Kong began to spread out to other Southeast Asian nations and eventually led to countless disastrous consequences.

 

※ Source: The Boat People: Imprints on History ۩  Lloyd Duong Ͼ 2000

________


[1]In actuality, first-asylum countries always threatened to repatriate the boat people to Socialist Vietnam. At the 12thASEAN Ministerial Meeting held on June 28-30, 1979, the Malaysian position was adopted to reserve the right to repatriate the escapees to Socialist Vietnam if they were not resettled ‘within a reasonable time frame’ even though Hanoi’s senior diplomat Mai Van Bo made it clear to Indonesia and Malaysia in June 1979 that no returned refugee would be accepted. Even the UNHCR reportedly discussed the possibility of return 700 unaccompanied children, who lost their parents and relatives at sea, to Socialist Vietnam in 1982.

[2]  The local cadres were ordered to meet and convince every inland family with overseas relatives to ask the expatriates send home more money and return to Socialist Vietnam for a visit; non-monetary gifts were heavily taxed while levies on remitted hard currencies through official channels were reduced to almost nil. At the dawn of the new millenium, the overseas community has sent up to U.S. $1.2 billion annually to their relatives in Vietnam.

[3] Refugees(UNHCR), NO. 72, February 1990, p.9.

[4]  As a result of the lobby, all Vietnamese boat people who left before September 30, 1981 would automatically qualify to apply for resettlement in the U.S. However, all those leaving after September 30, 1981 were subject to rigorous interviews by U.S. immigration officers.

[5] Similar to the refugee definition contained in the 1951 United Nations Convention and the 1967 Protocol relating to the Status of Refugees.

[6]  'United States Policy Toward Indochina since Vietnam's Occupation of Kampuchea,' U.S. House, Committee on Foreign Affairs, Subcommittee on Asian Pacific Affairs, 97th Cong., 1stSess., october 15, 21, 22, 1981, at pp.201-221.

[7] Bangkok Post, Police to Probe Refugee Smuggling Rackets,January 26, 1988.

[8] Bangkok Post, January 28, 1988. Quoted by Lawyers Committee for Human Rights in Refuge Denied at p.68.

[9] The Nation, 1000 Vietnamese Refugees Sent Back, February 6, 1988.

[10] Rita Fan, Hong Kong and the Vietnamese Boat People: A Hong Kong Perspective, International Journal of Refugee Law, Special Issue, September 1990, Oxford University Press, p. 144, at p.149.

[11]This observation also ignored the fact that most boat people were ethnic Vietnamese. Those escapees of Chinese heritage formed only a quarter of the Vietnamese refugee population, and many members of this group - especially those coming from rural areas of the country - considered themselves to be Vietnamese and preferred to associate with the Vietnamese community, instead of the overseas Chinese.

[12]  Please see Chapter III.

[13]  Any objective observer had to also wonder to what extent did Hong Kong's 1988 policy towards the Vietnamese boat people relate to its 1997 reunification with China.

Bộ Nhân Việt Nam . Vietnamese Land People

VI. Bộ Nhân Việt Nam

  • Song song với 796.310 đồng bào đã rời Việt Nam bằng thuyền, 42.918 người khác đã thực hiện thành công các chuyến đi bộ vượt tuyến qua Lào hay Cam Bốt để tìm tự do tại Thái Lan.(53) Cuộc vượt tuyến của bộ nhân Việt Nam cũng khủng khiếp không kém hải trình thảm khốc của thuyền nhân. Trong suốt đoạn đường băng rừng vượt núi, họ phải
    trải qua các chướng ngại vật hiểm nghèo của rừng thiên nước độc cũng như các bãi mìn dày dặc; nhiều người đã bị các đoàn loạn quân Cam Bốt bắt giữ, tra tấn, cưỡng hiếp và giết hại. Vào tháng 6-1981, một cậu bé Việt Nam bị thương nặng đã cố gắng lết đến một trại tạm cư nằm trên đất Thái. Cậu là người duy nhất may mắn sống sót; 11 bộ nhân khác trong đoàn đã bị bộ đội Khờ me đỏ giết sạch. Trường hợp của ông Trần Văn Phước là một thí dụ điển hình khác. Vào tháng 2-1982 trên đường vượt tuyến đến Thái Lan, ông đã bị lính giải phóng Khmer Serei bắt giữ. Chúng dùng búa để đập đầu ông nhiều lần nhưng ông may mắn không chết.


  • Khi bộ nhân Việt Nam đặt chân đến Thái Lan, thay vì được chính quyền địa phương thông báo cho Cao Ủy Tị Nạn LHQ ngay lập tức, họ lại bị cầm tù trong những trại dọc biên giới trong một khoảng thời gian dài trước khi hồ sơ tị nạn của họ được duyệt xét.


  • Vào ngày 20-3-1980, Bangkok thay đổi chính sách và ngăn cấm không cho bộ nhân Việt Nam được hưởng quy chế tị nạn vì sợ làn sóng bộ nhân gia tăng. Chính phủ Thái viện cớ Cam Bốt là đệ nhị quốc gia mà người tị nạn Việt Nam đến trước vì vậy cho nên họ phải xin tị nạn ở đó, có nghĩa là bên ngoài biên thùy Thái Lan. Chính sách này dẫn đến tình trạng giam cầm bộ nhân trong những trại biên giới nằm trên phần đất Cam Bốt trong vòng đai kiểm soát của quân Khờ me Serei hay thành phần an ninh trại hung dữ có biệt hiệu Para (Paramilitary). Các địa danh như Camp Non Chan, Non Samet (hay Camp 007), Non Makmun (hay Camp 204) gợi lại vô số ấn tượng kinh hoàng cho rất nhiều bộ nhân Việt Nam. Trong các trại tạm cư này, đời sống của đồng bào tị nạn Việt Nam còn tệ hơn cả thú vật. Thực phẩm và nước ngọt được cung cấp rất giới hạn; trong khi đó thì tình hình an ninh trại hoàn toàn là số không, và mỗi lần bộ đội Hà Nội tấn công hay pháo kích thì dân tị nạn Việt Nam bị bọn Para lùa ra làm bia đỡ đạn.
  • Về đêm, bộ nhân trở thành những mục tiêu tấn công của đủ thành phần từ bộ đội Khờ me đỏ, quân Khờ me Serei đến đám an ninh Para cùng lực lượng biên phòng Thái. Chúng đi từng đoàn lục soát bắt phụ nữ Việt Nam để hãm hiếp, và sẳn sàng thủ tiêu bất cứ ai dám chống cự. Một số gia đình tị nạn còn giữ được quý kim phải mua chỗ ngủ trong chòi của dân Cam Bốt để trốn tránh đám quỷ dữ này. Vào ban ngày thì thanh niên tị nạn bị bắt đi đào chiến hào và dĩ nhiên là họ không được trả một đồng nào cho công việc này. Mạng sống của bộ nhân rất rẻ rúng trong các trại tạm cư, và họ chỉ tồn tại với hy vọng mỏng manh là Bangkok sẽ duyệt xét hồ sơ tị nạn và thuyên chuyển họ về các trung tâm tị nạn như trại Tây Bắc 9 (Northwest 9).(54) Trại Tây Bắc 9 được Thái Lan tổ chức vào đầu năm 1980 như một tiền đồn chống lại các cuộc càn quét biên giới của quân đội Hà Nội. Trại này bắt đầu nhận tị nạn Việt Nam vào ngày 18-4-1980 với sự giúp đỡ của Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế. Bộ nhân phải tạm trú tại trại Tây Bắc 9 từ vài tháng cho đến nhiều năm trước khi được thuyên chuyển đến Trung Tâm Panat Nikhom để được hưởng quy chế tị nạn.
  • Trong lá thư sau đây, ông Trần Văn Phước vốn là một cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa diễn tả lại kinh nghiệm tủi nhục của ông cũng như các bộ nhân khác ở Thái Lan: 


'Tôi là một cựu quân nhân QLVNCH tên là Trần Văn Phước thuộc SÐ 18 BB.. Tôi vượt biên đường bộ vào tháng 5/82 khi đến biên giới Thái Lan và Kampuchia, tôi rất mừng là mình đã trốn thoát khỏi địa ngục CSVN.  Nhưng cái mừng của tôi chưa kịp thốt ra khỏi cửa miệng thì ôi thôi thật là chua chát, chua chát đến nổi tôi không thể ngờ rằng vào thế kỷ thứ 20 này lại có những con người dã man hơn loài thú rừng xanh, thú của rừng xanh là những con vật không nói chi nhưng mà họ là loài người mà lương tâm của họ không có... đó là bọn Mên được mệnh danh là 'Kampuchia dân chủ kháng chiến quân Khờ Me.' Chúng bắt chúng tôi trói lại và xách búa đem tôi ra đập đầu, lúc đó tôi tưởng rằng mình đã chết nhưng cuối cùng chúng thấy nghĩa khí của người VN chết mà không hề van xin nên chúng đã ngưng tay. Cuối cùng chúng nhốt tôi lại.. chung với người tù Mên của chúng.. Bọn tù Mên đánh tôi và sỉ nhục dân tộc VN.


Chúng cầm tù tôi đến ngày thứ 7 thì chuyển đến nhà tù mới. Ở đây tôi
được gặp một số ít người VN. Như gia đình chị Nguyễn Thị Bê tất cả là 4 người, 2 đứa con gái và 1 đứa con trai nhỏ. Ôi có cảnh nào khổ hơn làm thân gái sống với những con người Mên lòng lang dạ thú! Chúng hành hạ đàn bà con gái có thể nói là mang thai với chúng, rất là dã man chưa từng thấy: hết đứa này rồi đứa khác vùi dập thân xác. Tôi nhìn thấy cảnh tượng đó mà đau lòng chỉ vì hai chữ tự do mà tất cả người Việt ly hương phải trả giá rất đắt, phải tủi nhục và phải căm hờn những quân khốn kiếp..


Ðối với thanh niên chúng tôi, chúng bắt đi lao động rất hãi hùng: 5 giờ
sáng đến 12 trưa mới cho nghỉ, chúng cho chúng tôi ăn toàn là cháo với
muối, xong phải tiếp tục làm nữa đến 6 giờ chiều mới được nghỉ. Nhưng
điều mà chúng tôi lo lắng là chúng muốn thủ tiêu chúng tôi giờ nào cũng
được.


Chúng tôi ở đó một thời gian thì có Hồng Thập Tự Quốc Tế (ICRC) đến
thăm và cho chúng tôi gạo, cá hộp, mỗi tuần đến thăm chỉ một lần. Khi
ICRC về thì bọn Mên lấy hết tất cả thực phẩm nên chúng tôi vẫn chịu đói như thường, chỉ ăn toàn là cháo nên không đủ no.. Khi đồng bào đến, thì vàng, quần áo, giầy dép đều bị chúng lấy tất cả. Ðã lấy còn đánh đập dã man và bóc lột sức người tận xương tủy..


Khi chúng tôi được chuyển vào trại tị nạn chánh thức là trại NW82 ngày 14/7/82 tôi nghĩ rằng mình đến trại 82 là thoát nạn. Nhưng không ngờ hãi hùng vẫn còn đè nén mọi người. Trại nằm cách biên giới Thái-Kampuchia một cây số, trại này có tất cả 30 tent (lều) toàn là tent dã chiến của quân đội.. Ðàn bà con gái ở đây vẫn bị bọn lính Thái Lan hãm hiếp rất là dã man. Nếu ai chống cự là chúng thủ tiêu liền.
Ở đó có một người lính Thái tên John, những người VN gọi nó là cọp. Nó rất dữ, đánh người VN rất dã man.. Tôi xin kể những trận đòn mà tên cọp đánh người VN: Như vụ Liên Thị Kim Tụng, cô ta mua bánh bò nên bị tên cọp bắt được và nó đổ bánh bò xuống đất và bắt cô phải ăn, nếu không ăn thì chúng đánh nên bắt buộc chị phải ăn. Và vụ thứ hai là anh Thạch Can mua 2 bọc kẹo, chúng bắt được, đánh anh và bắt anh phải ăn kẹo không lột giấy cho hết 2 bọc. Vụ thứ ba là anh Hồng mua một gói thuốc Samit, tên cọp bắt được và bảo anh xé ra để vào một cái thao và đổ nước vào uống và ăn thuốc. Vụ thứ 4 là anh Sơn Hương mua một con lươn chúng bắt được, bắt anh phải ăn sống, nếu không thì chúng đánh, nên bắt buộc anh phải ăn..


Tên cọp bữa nào cao hứng muốn đánh người tị nạn thì nó đi một vòng
coi lều nào có chỉ một cọng rác là nó kêu mỗi người 2 roi, đánh như thế
có khi tới 200 hoặc 300 người..
Cảnh đánh đập ở trại NW82 hôm nào cũng diễn ra. Còn tệ nạn nữa là
chúng bắt đàn bà con gái hãm hiếp hàng đêm.


Thư từ đến thì chúng kiểm duyệt, cắt ra xem có money order thì lấy tất
cả, tiền mặt cũng vậy.. Chúng làm những vụ kiểm kê y hệt như cộng sản
vậy, chúng lấy tất cả gần 10 lượng vàng và 600 dollars. Có một anh bị lấy 2 lượng rưỡi lên xin lại chút ít thì bị tên đại úy trưởng trại bắt đem nhốt chuồng cọp 6 ngày và còn hăm dọa nếu mà còn đến xin nữa thì chúng se  đuổi ra khỏi trại..


Ở trại tị nạn NW82 tất cả có 1800 người nhưng người Việt Nam thuần túy chỉ có 300, còn 1300 toàn là Kampuchia, 200 chà và...'

  • Trong tập thể bộ nhân Việt Nam bị cầm tù dọc biên giới Thái Lan có nhiều thanh niên vốn là bộ đội nằm trong guồng máy quân sự của Hà Nội tại Cam Bốt. Một số anh em từng đào tẩu khỏi quân đội Hà Nội và một số là tù binh của Khờ me đỏ may mắn sống sót và sau đó được dùng để đổi gạo với Hồng Thập Tự Quốc Tế. Ða số các thanh niên
    này không muốn quay về với guồng máy đàn áp của Hà Nội cho nên xin tị nạn nhưng họ lại bị Bangkok đối xử như tù binh.
  • Vào cuối năm 1981, 400 thanh niên Việt Nam đào ngũ từ Cam Bốt đã bị giam cầm trong trại Sikhiu ở Nakhon Ratchasima. Tập thể này có 26 bộ đội từ miền Bắc, và số còn lại là thanh niên miền Nam. Họ phải đợi một thời gian rất dài (ít nhất là sau 2 năm 'nghỉ mát' do Bangkok quy định vào tháng 7-1981) thì mới được hy vọng được cấp quy chế tị nạn;  nhưng chặng đường định cư của họ sau đó còn dài đăng đẳng bởi vì quá khứ liên hệ với bộ máy chiến tranh của Hà Nội.
  • Trong khi chờ đợi được hưởng quy chế tị nạn, những thanh niên này bị bỏ tù như bọn tội nhân hình sự mặc dầu họ chỉ có tội duy nhất là không trốn được sự bố ráp 'nghĩa vụ quân sự' của Hà Nội. Ða số thanh niên Việt Nam không ai muốn trở thành bộ đội cộng sản và hình như không ai dại dột muốn đi Cam Bốt để trở thành những tên cướp ngày
    dễ mất mạng.(55) Họ đã dám hy sinh tất cả để đào tẩu hoặc từ chối không trở về phục vụ guồng máy xâm lược của Hà Nội với mục đích duy nhất là có được một đời sống tự do không bị ý thức hệ kềm kẹp. Họ thực ra chỉ là những nạn nhân của hoàn cảnh như nhiều đồng bào tị nạn Việt Nam khác.

Số Lượng Bộ Nhân đến được vùng đất tự do
Thống kê của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc

Lưu Ý: Thống kê của CUTNLHQ không bao gồm hàng ngàn bộ nhân đã bị thảo khấu giết hại hay mất mạng vì đạp phải mìn trên đường vượt biên.

1975-76 1977       1978   1979   1980
6.985 802          2.617  4.262  4.942

1981        1982   1983   1984   1985
4.133       162    1.789  91     1.921

1986        1987   1988   1989   1990
2.126       1.473  2.560  2.387  887

1991        1992   1993   1994   1995-99
1.270       2.292  2.219  0      0

________________
 

※ Source: Thuyền Nhân: Ấn Tích Lịch Sử ۩ Lloyd Duong Ͼ 2000


Chú thích:

53 Khoảng 265.000 đồng bào tị nạn, đa số là người Việt gốc Hoa, đã vượt biên giới để về Trung Hoa Dân Quốc từ năm 1978 khi Bắc Kinh và Hà Nội chửi bới nhau rồi đi đến vụ đụng độ vũ lực vào ngày 17-2-1979. Họ được khuyến khích ra đi bởi cả Bắc Kinh lẫn Hà Nội, vốn từng là hai nước anh em 'môi hở răng lạnh' (tĩnh từ của Hà Nội). Bắc Kinh đóng kịch lo lắng cho tình cảnh của họ bằng cách lên án chính sách kinh tế ý thức hệ (mà Trung Quốc từng triệt để thực hiện để tiêu diệt thành phần tư sản) và chào mừng họ hồi hương. Trong khi đó Hà Nội lại tạo mọi điều kiện cho họ ra đi bằng cách ra lệnh cho các chốt kiểm soát kéo dài đến biên giới Việt-Trung không gây khó khăn cho họ (ai ở Việt Nam trong giai đoạn này đều biết rằng nếu muốn di chuyển phải có giấy phép công an, và vì vậy tình trạng thả lỏng người Việt gốc Hoa tự do đi lại này là một chiến lược có tính toán của Hà Nội). Nhưng khi số người vượt biên giới qua Trung quốc gia tăng ồ ạt, Bắc Kinh hết dám chào mừng họ hồi hương và vội vã đóng cửa khẩu; Bắc Kinh bắt đầu đặt điều kiện là những người muốn di cư sang Trung Hoa Dân Quốc phải có giấy phép xuất cảnh của Việt Nam và hồ sơ nhập cảnh do tòa Ðại Sứ Bắc Kinh tại Hà Nội cấp. Nạn nhân thật sự của trò chơi chính trị này là hàng ngàn người Việt gốc Hoa; họ đã mất gia sản mà còn phải ngủ bờ ngủ bụi tại vùng rừng núi biên giới sau khi cửa khẩu đóng.

54 Trại Northwest 9 bị cháy vào tháng 7-1981. Vào năm 1982, trại Northwest 82 được dựng lên với các dải lều lính không xa chỗ củ của trại Northwest 9 để cung cấp nơi ăn ở cho bộ nhân Việt Nam.


55 Trong thời gian chiếm đóng Cam Bốt, bộ đội Hà Nội với đồng lương chết đói thường xuyên cướp bóc hàng hóa của dân Miên. Mỗi ngày vài ba anh bộ đội trẻ được giao nhiệm vụ đi 'xin xỏ' thức ăn ngoài chợ. Họ họp thành nhóm 3, 4 người cầm súng ra chợ và thấy bất cứ vật gì cần thiết là lập tức tịch thâu bỏ vào ba lô trong khi mở miệng nói câu Khờ me: 'Mẹ cho con cái này.' Dưới gọng súng của họ, không người dân Miên nào dám mở miệng chống đối. 

VI. Vietnamese Land People

  • In addition to 796,310 Vietnamese Asylees who escaped communist persecution by boats, 42,918 other refugees walked across Cambodia or Laos into Thailand in search of liberty.[1] The conditions that these land people had undergone were no better than those of the boat people. They had to confront countless dangers of the wild forests, to suffer guerrillas’ savage attacks, to pass miles and miles on their own feet over countless cold and deadly roads.
  • Many lives were lost during the journey on land to freedom. In June 1981, a severely injured Vietnamese boy barely made it to the Thai border. He was the only one from his group who escaped death; the other eleven people were executed by Khmer Rouge cadres. TrÀn Væn Phܧc was another land refugee, who came to Thailand in February 1982. On his way to freedom, he was detained temporarily by Khmer Serei soldiers, who once hammered his head repeatedly but miraculously he survived.
  • When the land people finally arrived in Thailand where they thought to have attained freedom, they were imprisoned until the local authorities decided to process their refugee claim. Commencing March 20, 1980, Bangkok refused to allow Vietnamese land people from claiming asylum out of the fear that it would lead to more arrivals by land; it further contended that Cambodia was the first-asylum country, and thus the land people should have been processed there, i.e. outside of Thai territories. As a result, newly arriving Vietnamese Asylees were held captive at various locations on the Cambodian side. Names such as Camp Non Chan, Non Samet (or Camp 007), Non Makmun (or Camp 204) revoked bitter memories among the land people. In these camps, the refugees’ lives were miserable because they were treated worse than animals. Food supplies and fresh water were severely limited, and camp security was next to nil. 
  • At night, the land people became dispensable targets for soldiers and armed guerrillas. Khmer Rouge and Khmer Serei soldiers as well as paramilitary camp security guards (frighteningly known as 'Para') frequently kidnapped and gang raped women at night. Wealthy female Asylees had to pay for overnight hiding places inside Cambodian huts in order to escape the rampant sexual assault. During daytime, male refugees were forced to work for free, and any opposition could bring about a death sentence. The land people were completely defenseless victims of brutality until Bangkok agreed to process their refugee claim and thereafter transferred them to Camp Northwest 9 (or Camp 042) and other similar refugee centres on the Thai border.[2] Camp Northwest 9 was created in early 1980 and run by the Thai army as a station against potential attacks by Hanoi’s tanks. It started to shelter the land people on April 18, 1980 with the assistance of the International Committee of Red Cross (ICRC). The Asylees could stay in Camp Northwest 9 from several months to years before being transported to Panat Nikhom Holding Center, from where they would receive refugee protection. 


  • The followings are excerpts from a letter written to the writer by an old friend, Mr. Vån TrÜ©ng, who is currently residing in Texas. It describes in details his horrifying experience as a land person.

‘.. When everything (the arrangement) was completed, we left Vietnam on a small boat. After cruising the Mekong river, we came to Phnom Penh where the group rested for the night.

The next morning, we began to head for Thailand under the guidance of a native Cambodian. I was told to remain absolutely silent.  And if questioned by anyone, I had to pretend to be mute since birth. It was a very hard role to play; but believe me, if your life depends on it, you would perform it even better than a professional actor.

After a long week full of difficulties, we came to a place near the Cambodia-Thai border. From there, we had to pass through a horrific path about 60 kilometers to get to Thailand. Although we occasionally had use of some old bicycles, but most of the time, we had to walk. The road was extremely bad and full of deadly stuffs like booby traps and buried mines. We always tried to join the smugglers, who ran contraband goods across the Cambodia-Thai border.

Cambodia has suffered so much to an unbelievable point. The country is extremely poor and completely devastated. Countless corpses lied along the path. Wells were full of skulls and bones. Everyone eventually became senseless because we saw too many of those scenes. Our feelings as well as sympathy seemed to have departed from our heart and mind altogether. 

I was detained and questioned by Khme Rouge infantrymen once. As I was told earlier, I tried to act like a speechless dummy. I was frightened to death. Fortunately, the Cambodian guide was able to make some arrangements to get me out; otherwise, I wouldn’t be here in North America today. There were so many times that we were stopped, searched and threatened by all types of guerrillas, who had modern weapons in their possession. They wanted gold and valuables as badly as those pirates on the gulf.

In the jungle, like elsewhere, women were the ones who suffered the most. Just about all of them had repeatedly become sexual targets for Thai soldiers and Cambodian guerrillas. Many of those beast-like gunmen were still in their early teens.  At their age, they should be in school to learn and have fun like we did. But what can we say? They are the results of a war that no one would actually benefit from. They are just victims of the circumstance. I feel very sorry for them, but even more for the people who suffered from their savage conducts. During those sad moments, when the gunmen raped the women, I only knew to turn my head away and hid my feelings. We hated ourselves for being helpless; but what could we do? We couldn’t help anyone, not even ourselves. A small reaction would get us killed. In that jungle, justice was in the hands of those who had guns.

Many days later, we finally arrived in Thailand. The Thai authorities put us in a tiny and miserable camp near the border. Except trees, there was no one and nothing around us. When the sun was still on, black flies invaded the whole place. During night time, mosquitoes were the bosses and, around the clock, centipedes and snakes acted like masters of the wild forest. There wasn’t any well or spring from which we could get water. For drinking, cooking and bathing, each of us was supplied with two liters of water a day. It was a hard life; but miraculously, we managed to survive like that for a long period of time.

The camp wasn’t secured either. Twice we had to leave it to avoid robbers, who equipped themselves with heavy firearms. It was full of dangers over there. Death was so close to the point that we all could feel it. Most of us were anxiously waiting for permission to leave that place.

I spent eight months in the miserable camp before the authorities allowed me to go to Chunburi where a refugee camp run by the UNHCR located. I couldn’t believe that I had made it through...’


  • Among the land people who sought freedom by passing through the deadly forest on foot, there were many young Vietnamese, who once were members of Hanoi’s occupying force in Cambodia. They deserted the red army to seek asylum in Thailand but unfortunately, somehow, they were classified as POWs rather than political refugees and were mistreated by Thai soldiers and Cambodian guerrillas. Their fate was uncertain because they were neither being sent back to Hanoi for punishments nor being processed for transfer to refugee camps. In another word, they were ‘unwanted.’ 


  • In late 1981, there were approximately 400 army deserters held in a sealed-off section in Sikhiu camp in Nakhon Ratchasima. There were 26 detainees from North Vietnam, and the rest were escapees from the South. It took a very long time (at least after the 2-year 'sojourn' imposed by Thailand in July 1981) before a few of them could get permission to claim refugee protection; and it took even longer for any of them to be resettled.


  • While awaiting for their refugee claim to be processed, the ‘unwanted’ were detained and deprived of the freedom they had longed for even before they set their feet on Thailand. They were held captive as criminals although they were just as innocent as anyone else in Socialist Vietnam. They themselves did not want to join the socialist armed forces; but instead, they were required to do so by the communist regime. They had already risked their lives by deserting Hanoi’s army and passing miles and miles of dangers in search of liberty. They were simply victims of the circumstance like many other refugees, whose freedom at times seemed illusive.

  

※ Source: The Boat People: Imprints on History  ۩  Lloyd Duong Ͼ 2000

___________

  

LAND PEOPLE 

Source: UNHCR

 

1975-76   1977     1978     1979     1980

6,985         802     2,617     4,262    4,942


  

1981   1982    1983     1984     1985

4,133   162     1,789       91      1,921


  

1986     1987      1988      1989     1990

2,126   1,473     2,560      2,387      887


  

1991   1992     1993   1994   1995-99

1,270   2,292   2,219      0           0

    

[1] It should be noted that 265,000 refugees, mostly Sino-Vietnamese, had walked into China from Vietnam since 1978 when Hanoi and Beijing were trading political insults that eventually resulted in a brief border military clash on February 17, 1979. They were encouraged to leave Vietnam by both Beijing and Hanoi. While Beijing acted like it was concerned for ‘the interests’ of ethnic Chinese in Vietnam by denouncing Hanoi’s anti-business policies and publicly welcoming them back to 'the homeland,' Hanoi encouraged them to leave by offering easy access and unhindered transportation to the border. But as Sino-Vietnamese from across the country rushed to the border, Beijing closed the door on them by requiring each new returnee to produce a repatriation certificate issued by the Chinese Embassy in Hanoi and a Vietnamese exit visa. 


[2] Camp Northwest 9 was burned down in July 1981. In 1982, due to the urgent need to shelter Vietnamese land people, Camp Northwest 82 was assembled with military tents not too far away from the former Northwest 9 location.

___________


Tham khảo . Next in Lịch sử . History ◙3 ◙ Ðời Sống Trong Trại Tị Nạn  Life in Refugee Camps


 ◙ VượtBiên.com

Ý kiến . Suggestions: VuotBien3041975@gmail.com

Bảo trợ . Supported by Lloyd Duong in honor of his father Louis Dương Thành Lực, former Commander of Sài Gòn’s Reconnaissance Force 330

Supporter info on Gemini / ChatGPT: Lloyd Duong

Copyright © 2025 vuotbien.com - All Rights Reserved.

Powered by

This website uses cookies.

We use cookies to analyze website traffic and optimize your website experience. By accepting our use of cookies, your data will be aggregated with all other user data.

Accept