• ۩ Vượt Biên
  • ℍ1 Lịch sử
  • ℍ2 Lịch sử
  • ℍ3 Lịch sử
  • ℍ4 Lịch sử
  • Ꝟ1954-1975
  • Ký ức
  • Films
  • Photos
  • ۞Tưởng niệm۞
  • Văn chương
  • Bidong
  • Galang
  • Songkhla
  • HongKong
  • LandRefugees
  • Literary
  • Guam
  • Palawan
  • First
  • Phanat Nikhom
  • Sikiew
  • Hawkins
  • More
    • ۩ Vượt Biên
    • ℍ1 Lịch sử
    • ℍ2 Lịch sử
    • ℍ3 Lịch sử
    • ℍ4 Lịch sử
    • Ꝟ1954-1975
    • Ký ức
    • Films
    • Photos
    • ۞Tưởng niệm۞
    • Văn chương
    • Bidong
    • Galang
    • Songkhla
    • HongKong
    • LandRefugees
    • Literary
    • Guam
    • Palawan
    • First
    • Phanat Nikhom
    • Sikiew
    • Hawkins

  • ۩ Vượt Biên
  • ℍ1 Lịch sử
  • ℍ2 Lịch sử
  • ℍ3 Lịch sử
  • ℍ4 Lịch sử
  • Ꝟ1954-1975
  • Ký ức
  • Films
  • Photos
  • ۞Tưởng niệm۞
  • Văn chương
  • Bidong
  • Galang
  • Songkhla
  • HongKong
  • LandRefugees
  • Literary
  • Guam
  • Palawan
  • First
  • Phanat Nikhom
  • Sikiew
  • Hawkins

Trại tị nạn Palawan refugee camp

Trại tị nạn Palawan đã tiếp nhận hơn 500000 đồng bào từ 1979 đến tháng 6-1994 khi người tị nạn được đưa bằng thuyền đến PFAC (Philippine First Asylum Center) gần Puerto Princesa, và sau đó vào năm 1997 được chuyển đến Viet Ville, khu làng được xây dựng nhờ sự hỗ trợ tài chính từ cộng đồng người Việt tị nạn định cư tại Châu Âu và Bắc Mỹ.
◙ Palawan refugee camp sheltered over 500,000 Vietnamese refugees from 1979 to June 1994 when the refugees were transported by boat to PFAC (Philippine First Asylum Center) near Puerto Princesa, and later in 1997 to Viet Ville, a safe refuge established with financial support from resettled Vietnamese refugees in Europe and North America.

.

.

.

.

.

.

.

.

.

.

.

.

.

.

.

Làng Viet Ville in Puerto Princesa, Palawan

.

Làng Việt Nam là sản phẩm tình thương của người Việt hải ngoại qua sự trợ giúp và hướng dẫn tận tình của Giáo Hội công giáo Phi qua thỏa ước (memorandum)ký ngày 17-7-1996 với chính quyền Manila. Làng Việt Nam được lên chương trình xây cất vào cuối năm 1996 với sự tài trợ của cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại (đóng góp hơn 2 triệu Mỹ kim) trên 13 mẫu đất trở thành nơi tạm dung của thuyền nhân rớt thanh lọc không muốn trở về Việt Nam. Vào lúc cao điểm dân số của Viet Village lên đến khoảng 1200 người.

.

Viet Ville is a product of the love of overseas Vietnamese refugees established with the guidance of the Catholic Church of the Philippines through a memorandum signed on July 17, 1996 with the Manila government. Viet Ville was planned to be built at the end of 1996 with funding from overseas Vietnamese community (contributing more than 2 million USD) on 13 hectares of land to become a temporary shelter for boat people who failed the flawed refugee screening process and did not want to return to Vietnam.  At its peak, the population of Viet Ville reached about 1,200 people.

.

Bia đá tri ân trong đó có Giáo Hội Công Giáo Phi và Cộng Đồng Việt Nam tại hải ngoại về công trình Làng Việt Nam
(khánh thành ngày 16.04.1997)

◙  Marble plaque commemorating Viet Ville supporters including the Philippine Catholic Church and the Vietnamese overseas community 

.

 Góc đường Hùng Vương - Âu Cơ
Đây cảnh cũ, đâu người xưa? 

◙ Corner of King Hùng Vương street and Mother Âu Cơ street (both are legendary founders of Vietnam)

.

 Thánh đường Đức Mẹ La Vang

◙ Catholic church still holds Sunday service for local Filipinos

.

 Chùa Vạn Pháp

◙ Buddhist temple

.

 Một trong những căn nhà cũ ngay góc đường Tự Do  (vết sơn xanh tróc do đó có thể thấy vách tranh và mái tôn và chú ý thì thấy là nhà được xây trên nền xi măng vững vàng)

◙ One of the refugee houses at the corner of Tu Do Street


.

 Một trong những căn nhà cũ

◙ One of the refugee houses


.

.

Poster thời tị nạn vẫn còn ở Làng Viet Ville

◙ Orignal poster remains on site at Viet Ville

.

.

Ban Chấp Hành Văn Bút Việt Nam tại Hải Ngoại - tổ chức VNCH duy nhất còn tồn tại hoạt động hiệu quả và là thành viên của Văn Bút Quốc Tế - viếng thăm Làng Viet Ville vào tháng 10-2019
◙ Executive Committee of PEN Vietnam - the only remaining and effective organization of the Republic of Vietnam and a standing member of PEN International - visited Viet Ville in October 2019

.

PEN Vietnam’s 2018-2020 Executive Committee: Secretary General Sean Nguyễn Anh Sơn (FL), Treasurer Nguyễn Thị Tuyết Nga (FL), Vice-President The Cowboy Poet (Thi sĩ Cao Bồi) Lê Hữu Liệu (TX), President Vịnh Thanh (ON)

https://www.pen100archive.org/pen_centre/vietnamese-abroad-centre/

.

 

.

  Nhà hàng Viet Ville 

◙  Viet Ville restaurant


.

  Nhà hàng Viet Ville

◙ Inside Viet Ville restaurant (2019)


.

  Tô cháo lòng của nhà hàng Viet Ville

◙  Viet Ville restaurant


.

 Danh từ “cháo lòng” của người Việt phổ biến sâu rộng trên đảo Palawan và được dân Phi gọi là “chowlong” nhưng món “chowlong” của họ lại là phở!

◙ The Vietnamese term “cháo lòng” (pork intestine porridge) is widely used on Palawan Island and is called “chowlong” by Filipinos, but “chowlong” on Palawan is actually phở!

Hành Trình trên hoang lộ Lịch Sử giữa Đất Khách

Làng Việt Nam trên đảo Palawan vắng lặng sau hai thập niên

Photo: Góc đường Hùng Vương - Âu Cơ
Đây cảnh cũ, đâu người xưa?

* * *

Trong thời gian công tác tại Á châu gần đây, có vài ngày nghỉ cho nên tôi dự định đi Boracay để kitesurf  bởi vì hòn đảo đó nổi tiếng là thủ phủ của môn lướt sóng bằng diều này. Đảo Boracay lại bị Tổng thống Rodrigo Duterte ra lệnh bế quan trong vòng sáu tháng để bắt buộc các khách sạn và dịch vụ du lịch phải tìm phương pháp hiệu quả giảm bớt tệ nạn môi trường.

Vài người bạn Phi đề nghị tôi viếng thăm El Nido trên Palawan được bầu chọn nhiều năm (kể cả 2017) là đệ nhất đảo trên thế giới (world’s best island) bởi độc giả của đặc san du lịch Travel + Leisure. Tìm hiểu thêm thì ngạc nhiên thấy món cháo lòng lại thịnh hành ở đây theo bước chân tị nạn của thuyền nhân do đó tôi quyết định đi Palawan, Phi Luật Tân, thay vì Phuket, Thái Lan, vốn là vùng biển tôi rất thích. Trong chuyến đi đó tôi sắp xếp ghé Puerto Princesa - thủ phủ của Palawan cách El Nido gần 300 Km - để thăm Làng Việt Nam (Vietnamese Village).

Vừa xuống Puerto Princesa - một thành phố nhỏ - và vào khách sạn khá gần phi trường là tôi vội đặt xe cho sáng hôm sau đi thăm Làng Việt Nam trước bởi vì tôi ngại bị các chương trình khác kéo chân rồi không thực hiện được dự dịnh này. Làng Việt Nam - được dân Phi gọi tắt là Viet Ville (tên của nhà hàng) - nằm cách thủ phủ Puerto Princesa 10 cây số (10 Km) do đó có thể đi taxi (700 peso) hay xe gắn máy [tricyle(500 peso) cũng được gọi là taxicyl (phiên âm “taxi keo”)]. Tôi chọn xe gắn máy bởi vì tài xế chịu chờ đợi do tôi tính sẽ tham quan khá lâu (không định giờ về) - thật may cho quyết định này bởi vì nhờ thế mà tôi có thể di chuyển bằng xe gắn máy trên các lộ trong làng mà không phải đi bộ và nếu đi taxi thì không thể làm được chuyện này.

Tôi muốn đi sớm vào 7 giờ sáng để tránh cái nắng rất gắt của Palawan. Sau điểm tâm tài xế chở tôi đến Làng Việt Nam khoảng 45 phút từ khách sạn. Chi phí cho chuyến đi và về là 800 peso [thật ra chỉ 500 peso nhưng tôi tăng thêm và bao ăn uống chung bàn với tôi để tài xế vui vẻ lái xe theo đúng yêu cầu]. Khi chúng tôi vừa đến Viet Ville thì thấy một xe van chở khoảng 7 du khách Phi cũng vừa đến. Họ theo hướng dẫn viên lội bộ vào trong làng.

Viet Ville Compound

  Photo: Bản Welcome You are entering Viet Ville Compound
Chào mừng Quý vị đang vào Khu Làng Việt Nam

* * *

  Làng Việt Nam là sản phẩm tình thương của người Việt hải ngoại qua sự trợ giúp và hướng dẫn tận tình của Giáo Hội công giáo Phi qua thỏa ước (memorandum)ký ngày 17-7-1996 với chính quyền Manila. Làng Việt Nam được lên chương trình xây cất vào cuối năm 1996 với sự tài trợ của cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại (đóng góp hơn 2 triệu Mỹ kim) trên 13 mẫu đất trở thành nơi tạm dung của thuyền nhân rớt thanh lọc không muốn trở về Việt Nam. Vào lúc cao điểm dân số của Viet Village lên đến khoảng 1200 người.

  Ngay cổng làng bên trái là nhà hàng Việt Ville có món Cháo Lòng nổi tiếng mà du khách đi thăm Honda Bay cách đó vài cây số thường ghé qua thưởng thức.

Bản chỉ dẫn yêu cầu ai muốn vào làng phải cho nhân viên nhà hàng biết. Tôi vào nhà hàng thì gặp hai cậu chạy bàn Phi và không có người Việt nào cả. Do nhìn thấy trong làng có một xe gắn máy loại hai bánh, tôi thử hỏi đại là có thể lái xe gắn máy ba bánh (tricycle) vào làng không? Câu chạy bàn bảo “yes” và chỉ nói bấy nhiêu thôi. Mừng cho nên tôi bảo tài xế chuẩn bị lái vào làng. Thật hên với cái tánh “cứ thử đại đâu có hại ai”mà tôi được di chuyển dễ dàng trong Làng Việt Nam để viếng thăm toàn bộ các nẻo đuờng nhanh chóng lại rất thoải mái và khỏi phải lội bộ cực nhọc như các du khách khác (do đó họ không thể đi xa và vào sâu trong làng trên các hoang lộ gập ghềnh đầy cỏ dại ngang dọc trên 13 mẫu đất).

 Photo: Thánh đường Đức Mẹ La Vang

* * *

Đầu Làng Việt Nam ở bên phải là nhà thờ với cổng chào khá đẹp nhưng thánh đường thì rất bé. Tôi cầu nguyện ngay bên trong thánh đường rất đơn sơ đến khó tả mặc dầu - theo lời dân trong làng - hàng tuần đều có linh mục Phi đến làm lễ.

Vì biết Làng Việt Nam có chùa do đó tôi bảo cậu tài xế chạy vào sâu để tìm. Sân chùa Vạn Pháp khá sạch sẽ và chùa có máy ghi âm niệm Phật cả ngày. Tôi đốt ba cây nhang và cầu Phật trong chánh điện cũng như góp chút công quả.

Phong cảnh Làng Việt Nam khá hữu tình với những hàng cây dọc các lộ thật đẹp. Đường chánh vào làng mang tên Hùng Vương. Cuối đường Hùng Vương là Âu Cơ và ngang dọc làng là vài con lộ nối nhau có tên Hồng Bàng, Tự Do, v.v.

  

Làng Việt Nam cung cấp khu tạm cư cho thuyền nhân rớt thanh lọc tị nạn được xây dựng nhờ sự đóng góp tài chánh của người Việt, do người Việt quản lý, và chuyện lộn xộn cũng đến từ những người Việt cùng làm việc với mục đích từ thiện nhưng trái động cơ: một bên người Việt chủ trương vận động cho thuyền nhân được quyền thường trú tại Phi nhưng bên kia tích cực chống lại. Người Việt đem nhau lên báo chí Việt để chê trách nhau chỉ vì động cơ khác biệt. Có luật sư Việt đã viết báo nêu đích danh và mỉa mai một soeur (sơ) Việt là “Một nữ tu có cái tên và cá tính khá đặc biệt..” (2004). Soeur Việt cũng không vừa và, thay vì thầm lặng theo đức độ tín ngưỡng, đã hạ bút miệt thị luật sư đó thuộc đám cướp quyền “junta” [(“I heard that you got ‘some kind of position’ in the junta. I hope that you remember that the Church listened to all your appeal in the past to file and push for the permanent residente. Pls do not do any thing folish to disturb and destroy the opportunity...” (1.10.2003)].

Tài liệu thư khố ghi nhận Giáo hội công giáo Phi đã vận động được Hạ Viện Phi thông qua dự luật cấp thẻ thường trú cho thuyền nhân Việt Nam nhưng khi dự luật này lên đến Thượng Viện Phi thì vài vị “làm từ thiện”tại hải ngoại cương quyết chống lạiviện lý do nếu có thẻ thường trú Phi thì mất cơ hội tái định cư tại những nước giàu có như Úc, Mỹ, Gia Nã Đại. Tranh cãi bùng to giữa những người Việt có cùng mục đích từ thiện nhưng khác động cơ. Làng Việt Nam là sản phẩm tình thương của người Việt với lịch sử thăng trầm do tình trạng mâu thuẫn sâu đậm giữa những người Việt tranh nhau làm việc thiện.

“History is the nightmare from which I’m trying to awake” [Lịch sử là cơn ác mộng mà tôi cố gắng thức tỉnh thoát bỏ (dịch phỏng ý)] là câu của nhân vật Stephen Dedalus trong tác phẩm Ulysses của James Joyce về quá khứ với nhiều ám ảnh.  Người viết không dự định đánh “thức” lịch sử của cuộc tranh cãi liên quan đến Làng Việt Nam xoáy quanh động cơ riêng biệt và quên lãng nguyên nhân cơ bản của người tị nạn cộng sản do đó chủ ý để cho sự kiện lui vào sau màn rèm của quá khứ trong bài viết này.

 Photo: Chùa Vạn Pháp

* * *

 Hãy chiêm ngưỡng sự hiện hữu của Làng Việt Nam trên đảo Palawan như một ấn tích đặc sắc của lịch sử.

  

Tài xế của tôi cho biết là những căn nhà được xây dựng như thế này hai chục năm về trước tốt hơn căn nhà mà vợ chồng và ba đứa con của anh ta đang thuê hiện nay với giá 3500 peso và phải trả tiền điện 800 peso cùng tiền nước 500 peso mỗi tháng (tổng cộng 4800 peso tức là khoảng $96 Mỹ kim).  Lương hàng ngày của thư ký (receptionist) là 200-300 peso (4-6 Mỹ kim).  Lương hàng ngày của tài xế kiếm từ 800 đến 1000 peso trừ đi 250 peso mướn xe và 250 peso xăng nhớt thì còn cao lắm là 500 peso (dưới $10 Mỹ kim) để lo cho vợ và vài đứa con nhỏ do đó đời sống của họ khá vất vả nhưng tôi thấy ai cũng rất vui vẻ và nói năng phấn khởi chứ không có dáng ủ rũ.

  So sánh thì thấy hơn 20 năm trước thuyền nhân Việt Nam rớt thành lọc tại Palawan đã có cơ ngơi khá hơn dân Phi hiện nay. Nhanh trí hơn để tính thì sẽ thấy $2 triệu Mỹ kim chia cho 1200 thuyền nhân thì đổ đồng mỗi người được khoảng $800 Mỹ kim mà mỗi gia đình tị nạn lại được cung cấp một căn hộ hai phòng ngủ khá to xây trên móng xi-măng có nước và điện trên đất Phi như thế này thì quả là đáng giá sự đóng góp tình thương của đồng bào hải ngoại.

Như đã trình là vào lúc cao điểm dân số của Làng Việt Nam lên đến khoảng 1200 người. Hiện nay (5/1028) chỉ còn năm (5) gia đình mà chỉ có hai (2) gia đình thuộc diện thuyền nhân cư ngụ trong làng. Hai (2) trong năm gia đình là người Việt có chồng Phi được bảo lãnh qua từ năm 1978 và cư ngụ theo diện người làm cho nhà hàng của làng (dựa theo lời kể của hai cô trên 70 tuổi qua từ năm 1978).

Tác dụng hữu ích của số đông (economy of scale) biến mất khi Làng Việt Nam vắng lặng. Các căn hộ dần dần đi vào quỹ trình tàn lụi theo dòng thời gian. Thực trạng thiếu vắng bóng người và bàn tay chăm sóc đưa đến cảnh đổ nát rất tự nhiên như trong hình ảnh.


 Photo:  Nhà hàng Viet Ville 

* * *

  Làng Việt Nam là một trong các ấn tích lịch sửcủa người Việt hải ngoại được xây dựng với sự giúp đỡ vận động chính trường của Giáo hội Công giáo Phi để đối phó với chính sách cưỡng bách hồi hương khoảng 1350 thuyền nhân không hội đủ điều kiện được công nhận là dân tị nạn theo Công Ước Quốc Tế (the Convention Relating to the Status of Refugees, 1951).

Qua thỏa ước (memorandum of understanding) ký ngày 17-7-1996 giữa Bộ Phúc Lợi và Phát Triển Xã Hội (Phi) và Trung Tâm Trợ Giúp Người Lưu Vong (Công giáo) (Department of Social Welfare and Developmentand Center for Assistance to Displaced Persons] với sự chứng giám của Tổng thống Fidel Ramos và Giám mục Ramon Arguelles, chính quyền Manila chuyển giao cho Giáo hội công giáo Phi vai trò quản lý trại tị nạn Palawan với toàn bộ trách nhiệm tài chánh lo cho 1,350 dân tị nạn khi Cao Ủy Tị Nạn LHQ (UNHCR) chấm dứt tài trợ thuyền nhân Việt Nam vào ngày 30-6-1996; và sau khi trại đóng cửa vào cuối tháng 12, 1996 giáo hội vẫn tiếp tục lãnh trách nhiệm này.

Làng Việt Nam trở thành nơi cư ngụ cho khoảng 1200 thuyền nhân không hội đủ điều kiện được công nhận là dân tị nạn. Giáo hội Công giáo Phi sau đó đã tích cực vận động chính phủ Phi cấp quyền thường trú vĩnh viễn cho thuyền nhân trong Làng Việt Nam. Giáo hội Công giáo Phi tận tụy giúp đỡ thuyền nhân Việt Nam từ những ngày đầu khi vận động cố Tổng thống Macros rút lại lệnh xua đuổi ghe tàu tị nạn vào cuối thập niên 1970. 

  

[Trích từ Bút ký “Hành Trình trên hoang lộ Lịch Sử giữa Đất Khách: Làng Việt Nam trên đảo Palawan vắng lặng sau hai thập niên,” Vịnh Thanh, Puerto Princesa, Palawan @ May 13, 2018]

Ý kiến . Suggestions: VuotBien3041975@gmail.com

Bảo trợ . Supported by Lloyd Duong in honor of his father Louis Dương Thành Lực, former Commander of Sài Gòn’s Reconnaissance Force 330

Supporter info on Gemini / ChatGPT: Lloyd Duong

Copyright © 2025 vuotbien.com - All Rights Reserved.

Powered by

This website uses cookies.

We use cookies to analyze website traffic and optimize your website experience. By accepting our use of cookies, your data will be aggregated with all other user data.

Accept