[Photo: Ảnh gia đình ông bà Lý Khánh Vân và 3 con tại trại tị nạn Galang]
Giai đoạn chuyển tiếp của đa số thuyền nhân Việt Nam từ những ngày lênh đênh trên
biển cả đến cuộc sống mới không kém phần bấp bênh tại đệ tam quốc gia được đóng
khung trong vòng đai trại tị nạn. Sự tài trợ của cộng đồng quốc tế đã giúp gầy dựng lên
nhiều trại tạm cư cho dân tị nạn Việt Nam tại các quốc gia Ðông Nam Á từ Nam Dương,
Phi Luật Tân đến Mã Lai, Thái Lan. Khi hội nghị quốc tế đầu tiên về tị nạn Ðông Dương
được tổ chức vào tháng 7-1979, khoảng 200.000 thuyền nhân đang tạm trú tại nhiều
quốc gia trong khi chờ đợi cơ hội tái định cư:
Brunei 20 Nam Hàn 42
Nhật 531 Tân Gia Ba 1.098
Macau 3.256 Phi Luật Tân 5.540
Thái Lan 9.112 Nam Dương 46.189
Mã Lai 66.222 Hồng Kông 66.419
Cấu trúc của các trại tị nạn khác nhau rất nhiều từ lều chỏng hay chòi cây trên những
hoang đảo đến nhà tiền chế, lồng thiết, ba-rắc (barracks) trong những khu đất bị rào
kẽm gai nội bất xuất, ngoại bất nhập.(34) Trại tị nạn Songkhla ở Thái Lan đã được
Bangkok tổ chức một cách vội vã trong khu Mueng vào tháng 6-1976;(35) nhưng sau đó
vì không đủ khả năng để tiếp thu hàng ngàn thuyền nhân cho nên vào tháng 12-1978,
một trại mới được dựng lên gần đó trên một bờ biển cách xa thành phố Songkhla. Vào
tháng 2-1980, trại có 32 ba-rắc dùng làm nơi trú ẩn cho khoảng 6.000 thuyền nhân.
Toàn khu vực trại bị rào kẽm gai và do một đội lính Thái kiểm soát. Songkhla có vài
giếng bơm tay để cung cấp nước ngọt cho toàn trại, và đa số dân tị nạn phải tắm rửa
ngoài biển (một vài nhà tắm riêng cho phụ nữ cũng được dựng lên phía sau các ba-rắc).
Trại nằm trên bãi biển trống rỗng cho nên không có rừng thưa cung cấp cũi đốt như ở
các trại khác; và vì vậy khi lượng than khiêm tốn do CUTNLHQ (thường được dân trong
trại gọi tắc là Cao Ủy) cung cấp hàng tháng hết, dân tị nạn phải mua cũi cũng như các
vật dụng cần thiết từ thương nhân Thái có liên hệ gia tộc hay quyền lợi với đám lính
kiểm soát ở khu chợ phía trước cổng trại. Nếu bị mất hết tài sản vào tay bọn cướp biển
lại không có thân nhân ở ngoại quốc giúp đỡ, thuyền nhân kém may mắn không còn
quý kim phải sống bám vào lòng từ thiện của những người chung quanh.
Vào năm 1979 - thời điểm cao độ nhất của phong trào vượt biên - ngoại trừ Hồng Kông
thuộc Anh quốc vốn tự tài trợ cho chương trình tị nạn với sự giúp đỡ giới hạn của Cao
Ủy,(36) CUTNLHQ chi mỗi ngày từ $0,25 Mỹ-kim cho một thuyền nhân ở Thái Lan đến
$1 Mỹ-kim cho mỗi người tị nạn Việt Nam ở Mã Lai.(37) Tàu tiếp liệu không phải lúc nào
cũng có thể đến nơi tạm cư của thuyền nhân một cách dễ dàng; điển hình là CUTNLHQ
phải mất từ 24 đến 36 giờ hải vận mới có thể tiếp tế cho dân tị nạn trên đảo Bintan của
Nam Dương và thực tế này đưa đến kết quả thê thảm là vài chục người trong đó có
nhiều trẻ em cũng như phụ nữ đã mất mạng trong khi chờ đợi tiếp liệu.
Một trong các trại tị nạn nổi tiếng mà hầu hết thuyền nhân đều biết là Pulau Bidong
(đảo Bidong) hay Cù Lao Bi Ðát có chu vi khoảng 1 cây số vuông. Vào tháng 7-1978,
121 người Việt Nam đầu tiên được đưa đến hòn đảo hoang dã không người ở này của
Nam Dương. Sáu tuần lễ sau, thêm 600 người tị nạn khác được chuyển đến đảo nhưng
chính quyền Jakarta và CUTNLHQ vẫn chưa tiến hành bất cứ chương trình nào nhằm
giúp đỡ phương tiện sinh tồn căn bản cho họ như phòng vệ sinh công cộng hay nơi dự
trữ tiếp liệu. Dân số tị nạn tại Bidong tăng lên 9.000 trong tháng sau đó và vọt lên đến
29.000 người vào cuối năm đó. Số thuyền nhân tại trại Cù Lao Bi Ðát sau này đã từng
lên đến trên 54.000 người, và thuyền nhân vẫn tồn tại một cách kỳ diệu trong hoàn
cảnh sống vô cùng khắc nghiệt. Sự tự do mới tìm lại được đã tạo cơ hội cho họ sử dụng
trí óc sáng tạo để chinh phục thiên nhiên nhằm thích ứng với đời sống khó khăn trên
đảo.
Ðể tồn tại trong điều kiện sinh hoạt khắc nghiệt từ nhiều tháng đến nhiều năm, ngoài
hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn, thuyền nhân còn phải trở thành những con người
sáng tạo để tìm cách sống thuận tiện trong lúc thiếu tất cả các phương tiện căn bản
nhất. Ðể tìm cũi nấu ăn cũng như cất chòi, dân tị nạn ở Bidong đã 'lên núi' (thực chất ra
chỉ là ngọn đồi cao khoảng 300 thước) đốn cây và mang về trại. Các căn chòi tạm trú
với bề dài khoảng 3 thước và bề ngang khoảng 2 thước được dựng lên khắp nơi; nhiều
căn còn có cả điện soi sáng nhờ vào bình ắc-qui (điện) xe hơi.(38) Ðể bổ khuyết cho
lượng nước ngọt 8-lít-mỗi-người do CUTNLHQ cung cấp cách nhật,(39) thuyền nhân đã
đào hàng trăm giếng nhỏ hầu lấy thêm nước sử dụng; tuy vậy, vào mùa khô thì chỉ vài
giếng là có nước.
Tiêu chuẩn khẩu phần ba ngày của mỗi thuyền nhân do CUTNLHQ trợ cấp bao gồm 900
grams gạo, 2 gói đường, 1 gói muối, 3 hộp cá mòi, 3 hộp đậu, 3 hộp gà, và 3 gói trà
hay cà phê (dĩ nhiên là tiêu chuẩn này đôi khi bị thâm thủng chút ít vì công nhân vô bọc
sai lạc hay nhà thầu ăn gian). Cứ mỗi đệ nhị cá nguyệt, nếu điều kiện cho phép, dân tị
nạn được cấp thêm rau tươi. Trẻ em dưới 3 tuổi còn được cho thêm sửa bột và bánh
bít-qui (biscuits hay bánh sửa khô). Ðể bổ trợ cho khẩu phần của CUTNLHQ, một số
thuyền nhân mua thêm hàng hóa từ thương thuyền Mã Lai đậu ngoài khơi và bán lại
kiếm lời bất kể sự cấm đoán của lính Mã; những cá nhân liều lĩnh vì đồng tiền này có
thể bị đánh đập tàn nhẫn và giam giữ nhiều ngày sau đó nếu bị bắt mà không có 'địa'
để hối lộ xứng đáng cho đám lính Nam Dương quản trị Bidong. Những gia đình mang
theo được quý kim hay được thân nhân tài trợ có thể mua hàng hóa 'buôn lậu' tại khu
chợ trời bên trong khu vực trại. Ðủ loại đồ vật được bày bán từ kem đánh răng, quần
áo, thuốc lá đến đường, bột, nước ngọt và bánh trái. Ngay cả xa xí phẩm như dầu
thơm, đồng hồ, đèn pin cũng có mặt tại chợ trời. Dĩ nhiên là các dụng cụng cần thiết
như búa, cưa, đinh, ốc và dây kẽm cũng không thể thiếu bởi vì dân tị nạn tại Bidong có
nhu cầu đốn cây chụm bếp và dựng chòi tạm cư.
Ðể đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tâm linh, thuyền nhân dựng lên một ngôi chùa và một
nhà thờ trên ngọn Ðồi Tôn Giáo nơi có một nghĩa địa nhỏ bảo bọc vài chục nấm mồ tị
nạn. Có lẽ không ai từng trải qua một giai đoạn sống trên Cù Lau Bi Ðát đầy dừa quên
được vị thuyền nhân qua đời đầu tiên trên đảo vốn là một cụ già kém may mắn bị dừa
rụng trúng đầu. Vào khoảng cuối năm 1979, 78 dân vượt biên đã gởi xác trên Bidong;
nhưng dân số tị nạn trên đảo cũng tăng lên với sự chào đời của 371 trẻ em.(40) Một sự
thật thương tâm trên Bidong là sự hiện diện của ít nhất 28 nạn nhân hải tặc mắc bệnh
tâm thần trầm trọng vì đã trải qua quá nhiều kinh nghiệm kinh hoàng, nhưng trại không
có phương tiện thích hợp nhằm giúp đỡ họ. Tình cảnh sống của thuyền nhân trên
Bidong đôi lúc thật khổ sở, và có lẽ vì vậy cho nên dân vượt biên mới gọi Pulau Bidong
là Cù Lau Bi Ðát hay Hải đảo buồn lâu bi đát.
Giai đoạn chuyển tiếp của đa số thuyền nhân Việt Nam trong vòng trại tạm cư tại
Ðông Nam Á trải qua rất nhiều chuỗi ngày vui buồn. Trại tị nạn cung cấp một môi
trường sinh động cho tình bằng hữu phát triển bềnh vững kéo dài nhiều năm sau này,
cho tình yêu nảy nở đưa đến tổ ấm gia đình, cho tinh thần chia xẻ giúp đỡ lẫn nhau
bùng phát giữa những con người hình như đã mất tất cả, cho niềm tin vào sức mạnh
tâm linh được bảo tồn và phát huy mạnh mẽ sau những ngày tháng lênh đênh trên biển
cả trực diện với tử thần và hải tặc, cho sức sáng tạo của khối óc con người có cơ hội
cạnh tranh trong việc gầy dựng đời sống mới từ việc bếp núc đến các tính toán thương
mãi, v.v.
◙ Niềm tin vào trời phật tái sinh mãnh liệt trong tâm hồn của nhiều thuyền nhân, đặc biệt
là những nạn nhân đã từng trải qua một hải trình khủng khiếp. Hầu hết tất cả các trại tị
nạn đều có một ngôi chùa, một nhà thờ kitô giáo và một giáo đường tin lành do cựu và
tân đạo hữu dựng lên. Các buổi lễ hàng tuần đều đầy người tham dự, và các tín đồ đến
trễ phải đứng bên ngoài để nghe lời minh giảng của vị lãnh tụ tinh thần. Ngoài việc tổ
chức lễ tế thường xuyên, các cơ sở tôn giáo cũng trở thành trung tâm bảo bọc các
chương trình đạo học, lớp Việt ngữ, Anh văn hoặc Pháp văn, song song với các sinh
hoạt xã hội hay thiện nguyện.
◙ Sinh hoạt xã hội - bất kể là có liên quan đến tôn giáo hay không - giúp cho cộng đồng
thuyền nhân trở nên gần gũi với nhau hơn trên mảnh đất xứ người xa lạ. Tình bằng hữu
nảy nở, phát triển và bền vững cho đến nhiều niên kỷ sau này. Một số cặp tình nhân đã
xe duyên và, nếu may mắn sinh hạ trước khi đi định cư, thỉnh thoảng họ đặt tên con
theo địa danh của trại như Songkhla Nguyễn để đánh dấu một kỷ niệm quan trọng
trong đời. Nhiều hội đoàn xã hội hay ái hữu được thành lập hoặc tái sinh nhằm tạo cơ
hội cho các thành viên trao đổi cũng như giúp đỡ lẫn nhau. Vào đầu niên kỷ 1980, vài
trại tị nạn ở Thái Lan còn có cả một tổ chức bí mật chuyên tuyển người về Việt Nam để
trực tiếp tranh đấu cho tự do dân chủ.
Sự sa sút của quốc gia khai thiết tinh thần tương trợ cao thượng nhất từ những con
người bình thường nhất đúng như thành ngữ 'quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.'
Tinh thần chia xẻ bùng phát giữa thuyền nhân với nhau cũng như giữa thuyền nhân và
đồng bào hải ngoại. Trong khi chờ đợi cơ hội định cư, hàng ngàn dân tị nạn tham gia
các công tác thiện nguyện trong trại từ dịch vụ thông dịch, phát hành bản tin, chương
trình văn nghệ đến dịch vụ bảo vệ an ninh, vệ sinh toàn trại, chương trình giúp đỡ các
thuyền nhân mới nhập trại và trẻ em vô gia đình. Nhu cầu xã hội của quý vị cao niên và
thanh niên cũng được các thiện nguyện viên chú ý đến; song song với sinh hoạt tôn
giáo, các lớp học ngoại ngữ và phong tục Tây phương được thực hiện hầu giúp cho quý
ông bà cụ một số kiến thức căn bản về cuộc sống mới sắp đến. Ðối với việc giúp đỡ
thanh thiếu niên, ngoài những sinh hoạt hướng đạo hay tôn giáo như ca đoàn hoặc gia
đình phật tử, các buổi sinh hoạt ngoài trời và trò chơi thể thao như túc cầu hay bóng
chuyền được tổ chức thường xuyên để đưa sức sống năng động của tuổi trẻ hướng về
các mục đích lành mạnh.
Tại các quốc gia định cư, cộng đồng tị nạn hải ngoại cũng không quên những thuyền
nhân Việt Nam còn kẹt lại trong các trại tạm cư ở Ðông Nam Á. Song song với nỗ lực lạc
quyên cứu trợ, họ thu thập và gởi sách báo đến các trại tị nạn để cập nhập hóa thuyền
nhân về biến chuyển quốc tế cũng như tin tức cộng đồng. Họ cũng tổ chức vài chuyến
viếng thăm các trung tâm tị nạn ở Ðông Nam Á nhằm giúp đỡ và khuyến khích thuyền
nhân tiếp tục giữ vững hy vọng vào một viễn ảnh tương lai tốt đẹp hơn. Trong niên kỷ
1990 khi chương trình thanh lọc được thực hiện một cách bất công với sự đồng tình của
CUTNLHQ, cộng đồng Việt Nam hải ngoại đã tài trợ cho nhiều thiện nguyện viên trở về
giúp đỡ đồng bào tị nạn, đặc biệt về phương diện luật pháp. Ðể xây dựng một cơ sở
bảo bọc cho đồng bào bị rớt thanh lọc tại Phi Luật Tân, cộng đồng Việt Nam hải ngoại
đã đóng góp khoảng $2 triệu Mỹ-kim cho chương trình Làng Việt Nam do Giáo Hội Phi
đề xướng.
Hàng quán trong trại tị nạn Galang, Nam Dương.
(Ảnh: Lý Khánh Vân)
Dân Việt ưa thích các món ăn truyền thống như chả giò và phở cũng như các món ăn
nhẹ như xôi chè; vì vậy cho nên không mấy ai ngạc nhiên khi thấy nhiều quán ăn cũng
như tiệm cà phê mọc ra khắp các trung tâm tị nạn trong vòng một vài tháng sau khi
khánh thành trại. Mặc dầu không cảm thấy ngạc nhiên nhưng bất cứ ai cũng phải kính
phục sự đảm đang của phụ nữ Việt Nam với khả năng linh động vĩ đại của họ trong việc
nấu nướng các món ăn truyền thống. Họ không những chỉ sáng tạo ra vật dụng bếp núc
để chế biến thực phẩm Việt mà còn phát minh ra phương pháp cải hóa đồ gia vị địa
phương để tạo ra hương vị thuần túy Việt. Trong một khoảng thời gian rất ngắn qua tài
đảm đang của phụ nữ Việt Nam, các món ăn truyền thống như chả giò và phở cũng như
các món ăn nhẹ như xôi chè đã xuất hiện tại hầu hết các trại tị nạn Ðông Nam Á.
Giai đoạn chuyển tiếp của thuyền nhân Việt Nam trong vòng đai trại tị nạn tuy có nhiều
kỷ niệm vui nhưng cũng chứa đựng một số giây phút kinh hoàng do các hành động hối
lộ và khủng bố của chính quyền sở tại song song với tệ nạn bắt cóc thanh nữ của bọn
côn đồ địa phương. Ðám lính nhận lãnh trách nhiệm kiểm soát cũng như bảo vệ người tị
nạn Việt Nam thường xuyên lục soát và tịch thâu đồ đạt của đồng bào trong trại; bất cứ
ai chống lại chúng đều có thể bị đánh đập và giam cầm trong các chuồng khỉ. Ðiển hình
là vào năm 1979, khoảng 1.400 đồng bào tại trại tạm cư Letung trên đảo Jemaja đã bị
cảnh sát Nam Dương ép phải đóng $50 Mỹ-kim mỗi người thì mới có thể được
CUTNLHQ lập hồ sơ tị nạn mặc dầu việc này hoàn toàn miễn phí.
Tệ nạn lính canh và côn đồ địa phương bắt cóc cũng như hãm hiếp phụ nữ đang sống
trong các trại tị nạn không phải là một việc hiếm khi xảy ra. Như đã tường trình trong
các phần trên, lính Nam Dương thường xuyên bắt cóc hảm hiếp thanh nữ Việt Nam ở
trại Kuku trong những năm 1989 và 1990. Trong một vụ khác, cô Mỹ Linh đã bị cảnh sát
Thái cưỡng dâm khi nhóm của cô bị nhốt trong một trại lính vào tháng 3-1988; sau ba
ngày bị hành hạ, đám cảnh sát Thái đẩy các nạn nhân lên một chiếc ghe bị lủng và kéo
ra hải phận quốc tế. Các nạn nhân này may mắn đến được đảo Kut và sau đó được đại
diện CUTNLHQ đưa về đảo Rang Yai vào ngày 12-3-1988 để nhập chung với khoảng
500 đồng bào tại đó. Trong một vụ khác, cô Nguyễn Diễm Chi bị lính Thái nhốt 23 ngày
vào tháng 4-1988 để điều tra về bọn côn đồ đã cưỡng hiếp cô trước đó; trong khoảng
thời gian bị giam giữ, cô đã bị bọn lính hãm hiếp nhiều lần.
Trong một vụ khác xảy ra vào ngày 18-3-1980 tại trại Songkhla, đám du đảng Thái
đánh bể đầu một thanh niên tị nạn để bắt cóc cô bạn gái của anh. Sau đó chúng lôi cô
về hướng đồn lính Thái ở phía sau trại. Một nhóm thuyền nhân đang ngủ trên 'đại lộ
Bình Minh' dọc bờ biển nghe tiếng kêu cứu của cô đã nhanh chân rượt theo đám du
đảng. Họ bất chấp lệnh cấm không được ra khỏi vòng đai trại sau 10 giờ đêm để đuổi
theo kịp đám côn đồ và cuối cùng đã giải thoát cô gái kịp thời. Sau khi bọn du đảng mất
mồi, lính Thái từ đồn ào ra; nhưng thay vì rượt bắt đám du đảng (lúc đó vẫn còn ẩn
hiện phía sau đồn), tên đồn trưởng Thái lại mắng nhiếc người tị nạn về hành động dám
ra khỏi vòng đai trại sau 10 giờ tối.(41)
Mặc dầu phải đối đầu với các kinh nghiệm tủi nhục như trên, hình như đa số thuyền
nhân đều đồng ý rằng giai đoạn chuyển tiếp trong trại tị nạn là một trong những
khoảng thời gian đáng nhớ nhất suốt cuộc đời của họ. Sau khi trải qua các thử thách
khó khăn tại đệ tam quốc gia, có nhiều người còn khẳng định giai đoạn chuyển tiếp đó
là một trong các khoảng 'thời gian lắng đọng' tương đối dễ chịu. (42)
※ Source: Thuyền Nhân: Ấn Tích Lịch Sử ۩ Lloyd Duong Ͼ 2000
___________
Chú thích:
34 Trại tị nạn của Singapore trên đường Hawkins có lẽ là trại tốt nhất nhưng chỉ có
đồng bào tị nạn nào đã được chấp nhận định cư mới có thể xin vào trại. Vào năm 1979,
Hồng Kông cho thuyền nhân tự do đi làm để kiếm sống; nhưng chương trình này chấm
dứt khi Hồng Kông đưa ra chính sách trại cấm để cầm tù tất cả đồng bào mới đến vào
tháng 7-1982.
35 Trước tháng 6-1976, thuyền nhân được đưa vào trại Sikhiu ở Nakhon Ratchasima.
Vào tháng 6-1976, hai trại tị nạn mới được Bangkok thành lập ở Songkhla (cho các
thuyền nhân cập bờ phía Nam Thái Lan) và Laem Sing (cho các thuyền nhân đến bờ
biển phía đông). Trại Laem Sing (hay Lâm Sỉnh) và nhiều trại tị nạn khác ở Aranyaprathet, Buriram, Fak Tha, Kap Cherng cũng như Mairut đã bị đóng cửa vào cuối năm 1981.
36 Hồng Kông đã chi $14 triệu Mỹ kim cho chương trình tị nạn trong năm 1979. Vào
ngày 16-8-1979, Cao Ủy giảm tiền ăn của thuyền nhân ở Hồng Kông xuống còn HK$4
mỗi ngày.
37 Nhiều hơn cả lợi tức trung bình của dân địa phương.
38 Vào gìai đoạn cao điểm khi thuyền nhân ồ ạt đổ lên Bidong, người ta đã chuyển tay
nhau các căn chòi nhỏ hẹp này với giá vài trăm Mỹ kim mặc dầu nội quy của trại ngăn
cấm chuyện mua bán này. Trong các năm sau này, các dãy nhà dài có tên là 'long
houses' đã được dựng lên để cung cấp chỗ ở tạm thời cho đồng bào tị nạn.
39 Vào mùa khô, cung lượng nước ngọt hàng ngày cho mỗi đầu người bị giảm xuống
còn 2 lít.
40 Vào Tết Dương Lịch năm 1981, Pulau Bidong đã chào đón em bé ra đời thứ 1.000
trong trại. Lúc đó trại đã có 7 trường dạy ngoại ngữ với 145 lớp học cho người lớn và trẻ
em.
41 Người viết là một cậu bé trong nhóm dân tị nạn rượt theo bọn du đảng Thái để cứu
cô gái trong đêm đó.
42 Trại tị nạn Việt Nam cuối cùng là the Pillar Point Vietnamese Refugee Centre ở Hồng
Kông đã đóng cửa vào tháng 5-2000. Khoảng 1.400 người ở đây không được đi định cư
bởi vì trở ngại tư cách pháp nhân (bị nghi là công dân Trung cộng giả làm thuyền nhân
Việt Nam) và do các hành vi phạm pháp trong quá khứ. Ða số các người này đã được
chính quyền Hồng Kông cấp quyền thường trú.
The boat people’s interim break between their dreadful escape and resettlement challenges was spent in various refugee camps. Thanks to international aid, numerous shelters for Vietnamese Asylees sprung up across Southeast Asia from Indonesia, Philippines to Malaysia, Thailand. When the first international conference on Indochinese refugees was held in Geneva in July 1979, nearly 200,000 boat people were waiting in various refugee camps for resettlement opportunities:
Brunei 20 South Korea 42
Japan 531 Singapore 1,098
Macau 3,256 Philippines 5,540
Thailand 9,112 Indonesia 46,189
Malaysia 66,222 Hong Kong 66,419
Refugee camps’ shelters differed significantly from tents or wooden huts in barbed-wire enclaves to barracks or concrete domiciles in secured enclosures without access to the outside world.[1] For instance, Songkhla camp in Thailand was hastily put together by Bangkok in June 1976[2]in Mueng District but it quickly ran out of room for the refugees; and thus in December 1978, a bigger camp was constructed on a beach far away from any sights of civilization in order to house the existing 3,000 boat people. Two years later in February 1980, the camp grew to contain 32 wooden barracks and shelter more than 6,000 refugees who were in the camp at the time. The camp was surrounded by a barbed-wire fence and controlled by a Thai army company. It had a few wells to supply fresh water for cooking but no place for the Asylees to gather fire woods; thus, when the UNHCR’s monthly limited supply of charcoal ran out, the refugees were required to buy fire woods and other necessities such as cooking wares at a small market ran by Thai soldiers’ cronies just outside of the camp. Without financial resources or monetary assistance from overseas relatives, a refugee had no choice but to depend on charity in order to survive.
At the peak of the exodus in 1979, except for Hong Kong which maintained its own refugee program with some UN assistance,[3]the UNHCR spent on a daily basis from U.S. $0.25 for each refugee in Thailand to U.S. $1 for every Asylee in Malaysia. Supply shipments to refugees did not always reach their intended destinations easily. For instance, it took 24 to 36 hours to ferry foods and necessities to the boat people stationed on Bintan Island in Indonesia. As a result, dozens of lives including women and children perished while waiting for scarce supplies.
An over-populated Malaysian refugee camp on Bidong Island (Pulau Bidong) was perhaps one of the most well-known shelters for Vietnamese boat people. In July 1978, 121 Vietnamese were ferried to this undeveloped and uninhabited one-kilometer square volcanic island. Six weeks later, 600 more refugees were transferred to the island but nothing was done by either the Malaysian government or the UNHCR to provide the Vietnamese with basic facilities such as supply bridges, storage or public toilets. The number of refugees increased to 9,000 during the following month and then 29,000 by year’s end. The Asylee population on Bidong Island eventually climbed to more than 54,000 people; and miraculously the refugees had managed to survive without even basic and proper amenities. The newly-reclaimed freedom had provided an opportunity for the boat people to exercise their creativity to conquer nature in order to ease their hard life in the camp.
To exist in such a severe situation for many months or even years, besides possessing hopes of a better future, the refugees tried to be incredibly creative to improvise for the lack of basic facilities. They traveled up the 300-meter-high hill on Bidong Island to gather fire woods for cooking and materials to build their huts or family shelters. A hut was about 2 meters in width and 3 meters in length; and some even had electric lights supported by car batteries.[4] To supplement their 8-litre-per-person fresh-water quota supplied by the UNHCR on every second day,[5]they dug over a hundred wells around the camp; during dry seasons, however, only a small number of these wells had water. Fresh water thus was one of the most critical items in the mind of many refugees on Bidong island; and according to a former refugee named Hanh, 'the worse thing was water. All the wells were getting low - there was no pure water for drinking and cooking. All day there were queues of people waiting for water and at 2 or 3 o'clock the queues were particularly long. In addition, the weather became bad. The sea was very rough, food couldn't be carried. Malaysian fishing boats tried to come with very expensive food. They were businessmen. We had to waste our money and pay high prices for food. Prices rose at the same time as the number of dead bodies.'[6]
The UNHCR’s 3-day ration for each refugee included 900 grams of rice, 2 bags of sugar, 1 bag of salt, 3 tins of canned fish, 3 tins of canned beans, 3 tins of canned chicken, and 3 bags of either tea or coffee. Every two months, subject to accessibility, the refugees were supplied with fresh vegetables. Children of tender age were allowed additional milk powder and dry biscuits. To find necessities to subsidize the UNHCR’s ration, some refugees traded with Malaysian fishermen despite the patrol soldiers’ severe punishment if caught red-handed without money to pay bribery. Those with hard currencies could acquire goods from a flea market that flourished inside the camp and sold all types of items ranging from toothpaste, cloths, cigarettes, sugar, flour to apples, grapes, pops and cookies. Fancy products such as flashlights, watches and perfumes were also available. As well, for sale were construction tools and materials such as hammers, saws, nails, screws and metal wire needed in the building of residential huts.
To facilitate their religious activities, the refugees erected a Buddhist pagoda and a Christian church on the Religion Hill (ñÒi Tôn Giáo),where a cemetery also existed to harbor resting places for several dozens of Asylees who passed away on the island. It was common knowledge that the first boat person who died on Pulau Bidong was an old man killed by a falling coconut. By late 1979, there were 78 deaths on the island; but the refugee population also increased by 371 new births.[7] At least 28 people, mostly rape victims, were diagnosed with serious mental problems but there was no facility to care for them. The living condition on Palau Bidong was so miserable that the boat people named the island as ‘Cù lao bi Çát’or ‘Häi Çäo buÒn lâu bi Çát’ (Island of Tragedy or Sad Isle).
Refugee life in sheltering camps witnessed many happy moments as well as unpleasant experiences. The camp’s environment was a fertile ground for the development of lasting friendships, the creation of fraternities that continued to flourish in resettlement countries, the permanent union of lovers, the generous sharing of necessities among the dispossessed, the devotion to religions following tragic escapes, the novel innovations in the art of Vietnamese cuisine along with the rise in entrepreneurial spirits, etc.
Human faith in Buddha or God was revived in many boat people, especially those encountering terrible ordeals on their journey to freedom. Almost every refugee camp had a Buddhist pagoda, a Catholic church and a Baptist chapel built and supported by long-time devotees and new followers. Weekly attendance was always full, and late comers had to stand outside of the premises to listen to vocal interpretations of holy teachings. Beside holding masses, these religious centers also provided facility for many activities which included bible seminars, foreign-language classes, Vietnamese schools for young children, charitable and social functions.
Social activities, both religious and secular, helped to bring the boat people closer together in strange lands. Many new friendships were made and lasted for many years to come. A number of couples got married, and some even desired to name their babies after the refugee camp, where the infants were born, such as Songkha NguyÍn. Several organizations were founded or reestablished to offer social and logistic assistance to associates. There was even a secret group operating in various Thai refugee camps in the early 1980s with the objective of assembling and sending members back to liberalize and democratize Socialist Vietnam.
National downturns sometimes bring out the best in ordinary people. The spirit of sharing among the boat people was evidential among the encamped refugees and between the Asylees and resettled expatriates. While awaiting for resettlement, thousands of boat people volunteered to take part in numerous activities from providing interpretation services, publishing news bulletins, undertaking security and sanitary works, offering assistance to the new arrivers, coordinating musical entertainment and caring for unaccompanied children and orphans, who lost their parents at sea. Special needs of the elderly and youth were also addressed by the volunteers. Beside religious functions, language and western lifestyle classes were held to offer older boat people some insights into their coming resettlement challenges. As for youngsters, beside daily schooling, weekly picnics and soccer games were organized to direct their active energy to worthy purposes.
In resettlement countries, Vietnamese expatriates did not forget their encamped counterpart. Beside financial contributions, they also collected and forwarded magazines and newspapers to various camps to update the sheltered Asylees with worldwide and community information. Occasional trips were organized by the expatriates to Southeast Asian refugee centers to deliver substantial necessities to the encamped boat people. In later years, when the refugee screening process was implemented, the expatriates supported various volunteers to return and provide legal assistance to the asylum-seekers. To shelter the Asylees in the Philippines, Viet Village was founded by the local Catholic church with approximately U.S. $2 million in donations from Vietnamese expatriates.
It is common knowledge that the Vietnamese people are particularly fond of excellent traditional foods such as chä-giò (imperial rolls) and phª (noodle soups) as well as tasty pastries such as xôi (sticky rice) and chè (sweet puddings). Therefore, it was no surprise to find many eateries and cafes sprung up in various refugee camps just a few months after their establishment. One had to deeply admire Vietnamese women, who were incredibly creative in preparing traditional cuisine from the local non-Vietnamese ingredients. They invented cooking accessories from used gadgets to process local food items, and managed to find seasonings to add Vietnamese flavors to the dishes. Popular recipes were modified by Vietnamese women to reflect local realities without losing traditional tastes. Soon or later, delicious foods such as chä-giò (imperial rolls), phª (noodle soups) and delightful pastries such as xôi (sticky rice) and chè (sweet puddings) appeared in almost all refugee centers.
The boat people’s happy break in the camps occasionally marred by negative experiences brought about by the local authorities’ corrupt practices, brutal assaults and abductions of female Asylees at night. The local soldiers assigned to guard refugee camps often searched and confiscated valuables from the boat people. Resistance attracted severe retaliations ranging from physical beatings to lengthy imprisonment in chuÒng khÌ (monkey cages). For example in 1979, 1,400 boat people held in Letung on Jemaja Island were repeatedly pressured to pay U.S. $50 each to the Indonesian police for access to free UNHCR refugee registration sessions.
Abductions and rapes of female Asylees by the soldiers and their cronies were not uncommon. In a temporary camp named Kuku on Jemaja Island, as aforementioned, Indonesian soldiers seized female Asylees from their families and gang raped the kidnapped victims for many months in 1989 and 1990. In another reported case, Ms. MÏ Linh was raped by uniformed Thai soldiers when her group was detained in a military camp in March 1988. Ms. MÏ Linh’s group was eventually put on a leaking canoe and towed out of Thai waters after 3 nightmarish days in detention. The desperate victims managed to reached Kut Island and were taken by UNHCR representatives to Rang Yai Island on March 12, 1988 to join 500 other survivors. In another similar incident, rape survivor NguyÍn DiÍm Chi was detained by the Thai authorities for 23 days in April 1988. During the detention, she was sexually assaulted by the soldiers assigned to investigate the criminals who attacked her previously.
Earlier in Songkla refugee camp in Thailand, on March 18, 1980, a gang of plain clothed assailants knocked a man out, grabbed his girlfriend and carried her toward to the soldiers’ station. A group of refugees sleeping on the beach nearby heard her screams and ran after the thugs, who had gone beyond the camp’s boundary. Eventually, by disregarding the rule to stay within the preset boundary, the refugees were able to rescue the female victim from her kidnappers. Thai soldiers immediately moved out of their station and, instead of looking for the assailants, blamed the refugees for their conduct outside of the camp’s boundary.[8]
Despite the negative experiences, however, almost all boat people agreed that the time spent in refugee camps was one of the most memorable moments in their lives. After encountering resettlement challenges in final-asylum countries, some even asserted that it was one of their better breaks.
※ Source: The Boat People: Imprints on History ۩ Lloyd Duong Ͼ 2000
___________
[1] Singapore maintained the best camp at Hawkins road, but only those refugees rescued at sea and in possession of resettlement offers could gain admission. Hong Kong initiated an interesting refugee self-support program in 1979 to allow the boat people to find works on the island. The program, however, ended with the introduction of closed-camps to imprison all arriving refugees.
[2] Before June 1976, Vietnamese boat people arriving in Thailand were taken to Sikhiu camp in Nakhon Ratchasima. In June 1976, two new camps were established in Songkhla (for those who landed in Southern Thailand) and Laem Sing (for those who disembarked on the eastern coastline). Laem Sing Refugee Camp and other shelters in Aranyaprathet, Buriram, Fak Tha, Kap Cherng and Mairut were closed in 1981.
[3] Hong Kong’s direct spending on refugees in 1979 amounted to U.S. $14 million. On August 16, 1979, the UNHCR reduced the refugees' daily food allowance to HK$4.
[4] At the peak of the boat people exodus, despite camp regulations prohibiting the sale of huts, the cardboard-walled and wooden shelters were changed hands at steep prices; some huts cost as much as several hundred dollars. In later years, efforts were made to build common residential barracks known as ‘long houses’ for the refugees to ease the lodging shortage.
[5] During dry seasons, the fresh-water quota was reduced to 2-liter-per-person-per-day.
[6] Note from Hanh prepared in an English school managed by the Immigration Reception Centre at Mangere, Auckland in July 1979. Quoted by Keith St Cartmail in Exodus Indochina, Heinemann, 1982, at p.123.
[7] By New Year's Day of 1981, Pulau Bidong refugee camp celebrated its 1,000th childbirth. At that time, the refugees managed to set up 7 schools with 145 language classes for adults and children.
[8] This writer was among the boat people chasing after the Thai thugs.
Tham khảo . Next in Lịch sử . History ◙ 4 ◙ Phản Ứng của Thế Giới International Response
4. Phản Ứng của Thế Giới
International Response
4.I Phản Ứng Ban Ðầu của Cộng Ðồng Quốc Tế
Initial Worldwide Reception
4.II Kế Hoạch Buôn Dân của Hà Nội
Hanoi's Trade in Human Misery
4.III Các Kiện Hàng Người Khổng Lồ
Huge Human Cargoes on Rusty Ships
4.IV Hậu Quả Di Hại của Kế Hoạch Buôn Dân
Detrimental Impacts of Hanoi's Cargoes
4.V Hội Nghị Quốc Tế về Tị Nạn Ðông Dương I
The First International Conference
4.VI Phong Trào Quốc Tế Cứu Trợ Thuyền Nhân
Historic Rescue Effort
4.VII Hội Nghị Quốc Tế về Tị Nạn Ðông Dương II
The Second International Conference
We use cookies to analyze website traffic and optimize your website experience. By accepting our use of cookies, your data will be aggregated with all other user data.