4.I Phản Ứng Ban Ðầu của Cộng Ðồng Quốc Tế
Initial Worldwide Reception
4.II Kế Hoạch Buôn Dân của Hà Nội
Hanoi's Trade in Human Misery
4.III Các Kiện Hàng Người Khổng Lồ
Huge Human Cargoes on Rusty Ships
4.IV Hậu Quả Di Hại của Kế Hoạch Buôn Dân
Detrimental Impacts of Hanoi's Human Cargoes
4.V Hội Nghị Quốc Tế về Tị Nạn Ðông Dương I
The First International Conference on Indochinese Refugees
4.VI Phong Trào Quốc Tế Cứu Trợ Thuyền Nhân
Historic Rescue Effort
4.VII Hội Nghị Quốc Tế về Tị Nạn Ðông Dương II
The Second International Conference on Indochinese Refugees
___________
◙ Phản Ứng của Cộng Ðồng Quốc Tế
'Một vấn nạn nhân đạo mang tầm vóc lịch sử.'
Thông cáo đặc biệt về Tị Nạn Ðông Dương tại Hội Nghị Thượng Ðỉnh Tokyo.
‘A humanitarian problem of historical proportions.’
- ‘Special statement of the Tokyo Summit on Indochinese refugees’ by Britain, Canada, France, Italy, Japan, United States and West Germany. June 1979
Hải trình kinh hoàng của thuyền nhân Việt Nam đã đánh thức lương tâm và lòng trắc ẩn của nhân loại. Trong những năm đầu của làn sóng tị nạn, một chiến dịch cứu trợ thuyền nhân vĩ đại hiếm có trong lịch sử đã được thực hiện bởi nhiều đoàn thể quốc tế cũng như cộng đồng nhân dân tại nhiều quốc gia trên toàn thế giới. Bên lề sự trợ giúp tích cực này, thảm trạng thuyền nhân cũng làm lộ ra được một khía cạnh xấu xa nhất của đường lối chính trị thiên quyền (power politics) vốn được các cường quốc sử dụng để trốn tránh trách nhiệm quốc tế. Trong khi cộng đồng nhân dân toàn thế giới hết lòng giúp đỡ thuyền nhân vì lòng nhân đạo chung của con người, chính sách của các trung
tâm quốc quyền đối với làn sóng tị nạn Việt Nam không được minh bạch và luôn luôn phản ảnh sự cấu xé lẫn nhau vì quyền lợi riêng tư.
Nhà tù khổng lồ hay 'Vietnamese gulag' (1) và chính sách diệt chủng (2) của Hà Nội đã khiến hàng triệu người Việt tìm đường vượt biên. Trong 8 tháng sau khi Sài Gòn thất thủ, 378 thuyền nhân đã trốn thoát thành công. Vào năm 1976, số thuyền nhân ra đi thành công tăng lên 5.569; và vào tháng 7 của năm đó, lần đầu tiên Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc kêu gọi cộng đồng thế giới giúp đỡ tị nạn Việt Nam. Một năm sau, số lượng thuyền nhân vọt lên 17.126, và tiếp tục tăng đến 87.164 vào năm 1978 và đạt cực điểm 201.189 vào năm 1979. Vào tháng 10-1979, Chủ bút của The Age Michael Davie quả quyết: '.. thuyền nhân không phải là một làn sóng tuyệt vọng khác của thành phần mất đất sống mà là những nạn nhân và là dấu hiệu báo trước một tình trạng mất an ninh sâu rộng trong vùng.'(3)
◙ Phản Ứng Ban Ðầu
Mặc dầu nhu cầu cứu trợ thuyền nhân trở nên khẩn cấp, phản ứng của đa số các chính phủ trên thế giới trước 1979 (4) có vẽ lãnh đạm bởi vì thiếu sự lãnh đạo của Hoa Kỳ vốn thường thấy trong các vụ khủng hoảng lớn. Báo The Wall Street Journal mô tả tình trạng này như 'một vụ ô nhục trong dinh thự của những người lịch sự' ('a scandal in the house of decent men'). Chính sách thờ ơ của Hoa Kỳ phản ảnh mặc cảm Việt Nam hay chủ trương 'no more Vietnam' (không còn Việt Nam nữa) sau ngày 30-4-1975. Hoa Thịnh Ðốn chọn một chính sách phản ứng tùy nhu cầu mà không có một chiến lược rõ ràng để đối đầu với cuộc khủng hoảng tị nạn Ðông Dương. Bộ Trưởng Tư Pháp Hoa Kỳ sử dụng đặc quyền parole (ân xá) vốn dành riêng cho các trường hợp khẩn cấp để định cư thuyền nhân. Tuy nhiên khi số lượng dân tị nạn gia tăng ngoài dự đoán, tân chính quyền Carter cần phải tiếp tục sử dụng đặc quyền ân xá mặc dầu trước đó cựu chính quyền Ford đã hứa với Quốc Hội là lần sử dụng đặc quyền này vào tháng 5-1976 để thâu nhận dân tị nạn Lào là lần chót. Tuy vậy, số lượng ân xá mới bao gồm 7.000 người Việt và 8.000 người Lào vừa được thông qua vào tháng 8-1977 đã không thể đối đầu với trào lưu tị nạn đang gia tăng; và vì vậy, vào ngày 25-1-1978, đặc quyền ân xá lại được tái sử dụng để thâu nhận thêm dân tị nạn Ðông Dương.
Tuy tình trạng khủng hoảng tị nạn ở Ðông Nam Á ngày càng khẩn trương hơn, Hoa Kỳ đã không có một chính sách rõ ràng để đối đầu với vấn nạn vĩ đại này. Thiếu sự lãnh đạo của Hoa Thịnh Ðốn, các chính quyền khác cũng trở nên lãnh đạm đối với cuộc khủng hoảng tị nạn Ðông Dương. Hoa Kỳ muốn quốc tế hóa thảm trạng thuyền nhân để lôi kéo các quốc gia khác vào cứu giúp cũng như định cư tị nạn Ðông Dương; tuy nhiên vì tòa Bạch -c tỏ vẻ thờ ơ và thiếu nhiệt tâm trong việc đón nhận thuyền nhân, những chính quyền khác cũng phản ứng tương tự. Các chính phủ Tây phương đã không vội vã nhảy vào trợ giúp một vấn nạn mà giới lãnh đạo Âu Châu suy luận là vấn nạn của Hoa Kỳ do hậu quả tác hại của chính sách phản bội đồng minh Nam Việt Nam đưa đến. Vì
vậy cho đến đầu năm 1978, hiếm có quốc gia nào trên thế giới thâu nhận dân tị nạn Ðông Dương; và số thuyền nhân kẹt tại các trại tị nạn trở thành vấn nạn thặng dư cho các quốc gia tạm cư vốn luôn luôn đòi hỏi 'mỗi người tị nạn đều phải được định cư trong một khoảng thời gian hữu lý' ('every single refugee would be resettled within a reasonable time.') (5) Phản ứng lãnh đạm của chính giới ngoại quốc trong những năm đầu của làn sóng tị nạn dẫn đến hậu quả bất lợi kể cả quyết định của các quốc gia Ðông Nam Á dứt khoát không cho thuyền nhân cập biên tạm cư và kéo dài thời gian tạm lưu trước khi được định cư của đồng bào tị nạn đang hiện diện ở trại để tạo ra một tình trạng chán nản với hy vọng sẽ gây được áp lực giảm thiểu số người vượt biên. (6)
Toàn thế giới cộng sản ngoại trừ Trung quốc cực lực tố cáo là các quốc gia tự do đã tạo ra yếu tố 'lôi kéo' (pull factor) người Việt ra đi. Trước khi sụp đổ vào năm 1991, chính quyền Sô Viết lý luận rằng thảm cảnh thuyền nhân chính là tình trạng kế tục của cuộc chiến Việt Nam. Bắc Kinh và Hoa Thịnh Ðốn bị lên án là đã tạo ra làn sóng tị nạn bởi vì không chịu chấp nhận thực trạng của 'một nước Việt Nam mới.' Trung quốc bị nguyền rủa bởi vì đã cung cấp cho người Việt gốc Hoa những tin tức thất thiệt, và Hoa Kỳ bị nêu đích danh là đã lợi dụng tình trạng này để bôi bẩn thanh danh của CHXHCN Việt Nam trên chính trường quốc tế. Trong nhãn quan của Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh đã cố gắng mô tả làn sóng tị nạn như một hậu quả của chính sách kỳ thị của Hà Nội để cản trở nỗ lực xây dựng đất nước của đảng Cộng Sản Việt Nam; trong khi đó, Hoa Thịnh Ðốn lại đưa chiến hạm đến Ðông Nam Á trên lý thuyết để cứu giúp thuyền nhân nhưng thực tế là để khuyến khích thêm nhiều người vượt biên nhằm tạo ra không khí xáo trộn mất an ninh trong vùng hầu bảo vệ ảnh hưởng chiến lược của Hoa Kỳ. Chính quyền Liên Sô quan niệm rằng phương pháp duy nhất để giải quyết thảm trạng thuyền nhân là Bắc Kinh và Hoa Thịnh Ðốn phải chấm dứt cuộc chiến 'tuyên truyền' và các yếu tố 'lôi kéo' người Việt ra đi.
Hoa Kỳ bác bỏ quan điểm của Liên Sô và xác định sự vi phạm nhân quyền trầm trọng của Hà Nội chính là lý do khiến hàng triệu người phải tìm đường vượt biên. Tại hội nghị quốc tế về tị nạn Ðông Dương kỳ I vào ngày 21-7-1979, Phó Tổng Thống Walter Mondale quả quyết: '(CHXHCN Việt Nam) đã không chịu bảo đảm nhân quyền của dân. Các chính sách tàn nhẫn và vô trách nhiệm đã khiến vô vàn công dân phải bỏ tất cả những gì họ trân trọng, liều mạng, và tẩu thoát vào một thế giới xa lạ.' (7) Trong khi đó thì Trung quốc lý luận rằng 'chính sách xâm lược và gây chiến' của Hà Nội đã tạo ra làn sóng tị nạn. Vào ngày 16-6-1979, một phát ngôn viên của Bộ Ngoại Giao Trung Hoa Cộng Sản tuyên bố: 'Cuối cùng như phân tích, vấn đề tị nạn Ðông Dương xảy ra chỉ vì chính quyền Việt Nam tiến hành chính sách xâm lược và gây chiến... Chính sách này phá hoại nền kinh tế và bần cùng hóa người dân. Kết quả là môt số lượng lớn người ở Việt Nam phải trốn khỏi đất nước.' (8)
Trong khi các cường quốc và chính quyền liên hệ bận rộn bình luận về nguyên nhân tạo ra thảm trạng tị nạn Ðông Dương và tố cáo lẫn nhau vì bất lực không thể đưa ra được một phương pháp giải quyết cụ thể, các nỗ lực hữu hiệu để cứu trợ thuyền nhân gặp hiểm nguy trên biển Ðông cũng không được thực hiện. Vào năm 1979, nhà ngoại giao Bruce Grant mô tả tình trạng tai ương này như sau: (9)
'Câu chuyện thuyền nhân phơi bày bộ mặt nguyên thủy của đường lối chính trị thiên quyền (power politics). Trong khi những người thiện ý tràn đầy hy vọng khi bàn luận về viễn ảnh của 'một trật tự mới' hay 'một di sản chung của nhân loại' trong phần tư cuối của thế kỷ 20, thuyền nhân đã làm lộ ra một khía cạnh khác - sự tàn nhẫn của cường quốc, sự hung bạo của các tiểu quốc, lòng tham lam quá độ và thành kiến của con người. Ðôi lúc khi kể chuyện về thuyền nhân, hình như toàn thể bán đảo Ðông Dương đã trở thành khối xoáy thu hút tất cả sự tồi tệ của nhân loại...
... Khả năng quẹt nước cá sấu của các quốc gia dân chủ tân tiến đối với vấn đề thuyền nhân, trong khi không làm gì để giải quyết nguồn gốc của làn sóng ra đi, thật đáng lưu tâm. Thuyền nhân thật sự khiến chúng ta phải tự xét về bản thân cũng như thực trạng của thế giới của chúng ta.' (10)
Không giống như chủ trương lãnh đạm của giới chánh khách vốn bị ảnh hưởng bởi các
tính toán chính trị, những người dân bình thường cùng các tổ chức phi chính phủ trên
toàn thế giới đã sốt sắng và nhiệt tâm vận động cứu giúp cũng như bảo trợ thuyền nhân Việt Nam. Vào khoảng năm 1977, tàu Roland của Nghị Hội Tôn Giáo và Hòa Bình (World Conference on Religion and Peace [WCRP]) đã ra biển Ðông để cứu trợ người tị nạn. Mặc dầu nỗ lực này từng bị Cao Ủy Tị Nạn LHQ phê bình là 'lòng bác ái đặt sai chỗ' (misguided philanthropy), tàu Roland đã vớt được khoảng 300 đồng bào trên biển. (11)
Tổ chức WCRP không phải là tổ chức tôn giáo duy nhất đã tài trợ cho tàu ra khơi cứu
giúp thuyền nhân. Một tổ chức khác là World Vision International có trụ sở ở California
từng gởi tàu Seasweep về Ðông Nam Á; vào tháng 7-1979, tàu Seasweep đã vớt được nhiều thuyền nhân bị hải quân Mã Lai bắt bỏ lên ghe và kéo ngược ra biển.
Tại Âu Châu, Triết gia Jean-Paul Sartre kêu gọi chính quyền Pháp giúp đỡ dân tị nạn
Việt Nam: 'Một số họ không luôn thuộc phe ta, nhưng lúc này chúng ta không nên lưu tâm đến quan điểm chính trị của họ, mà là (nên lưu tâm đến) việc cứu mạng họ. Ðây là một vấn đề luân lý, một câu chất vấn luân lý giữa con người.'(12) Thảm trạng thuyền nhân đem nhiều nhà đối lập lâu năm gần lại với nhau hơn và giúp hòa giải một số tư kiến khác biệt của họ. Vào ngày 20-6-1979, Jean-Paul Sartre vui vẻ bắt tay nhà đối lập chính trị lâu năm của ông, Văn sĩ Raymond Aron. Nỗ lực trợ giúp thuyền nhân Việt Nam của Jean-Paul Sartre được nhiều trí thức Pháp ủng hộ, và đáng lưu ý là nhà phản chiến tiếng tăm André Glucksmann. Sau này Glucksmann đã viết trong sách The Discourse of War: 'Người tị nạn Việt Nam là hậu quả của hai hệ luận xung đột thiên
chiến - cả hai đều từ Hegel - luận đề cộng sản và luận đề chống cộng sản. Cả hai đều dẫn đến một hệ quả như nhau.'(13)
Hội Y Sĩ Thế Giới (Médecins du Monde) của Pháp đã gởi tàu Ðảo Ánh Sáng (Ile de Lumière) đến vịnh Thái Lan để cứu vớt thuyền nhân cũng như trợ giúp y tế cho các trại tị nạn. Công tác của Ile de Lumière được tiếp tục với tàu Alcune II vào năm 1981, tàu Le Goela năm 1982, tàu Jean Charcot năm 1985, và tàu Rose Schiaffino năm 1987. Ba Lê ra lệnh cho một vài chiến hạm bảo vệ cho các chiến dịch cứu trợ thuyền nhân của hội Y Sĩ Quốc Tế khi cần thiết.
Phản ứng theo sức ép của dư luận, Ý Ðại Lợi biệt phái hai chiến hạm và một tàu tiếp tế đến biển Ðông vào giữa năm 1979 để cứu vớt và thâu nhận khoảng 1.000 thuyền nhân. Tại Tây Ðức, Ủy Ban Một Chiếc Tàu cho Việt Nam (Ein Schiff fuer Vietnam) (14) được thành lập vào tháng 7-1979 và gởi tàu Cap Anamur của nhà hảo tâm Hans Voss đi trợ giúp dân tị nạn Việt Nam trên các hải đảo Anambas của Nam Dương. Nhân dân Ðức đóng góp hơn 21 triệu Ðức Mã cho các chương trình nhân đạo của tàu Cap Anamur tại Ðông Nam Á. Vào năm 1987, Ein Schiff fuer Vietnam vốn đã cải danh thành Komitee Cap Anamur cộng tác với hội Y Sĩ Thế Giới của Pháp và tài trợ cho tàu Ile de Lumière II - Cap Anamur III tiếp tục công tác thiện nguyện giúp đỡ thuyền nhân; cộng đồng Việt Nam đã đóng góp rất nhiều cho chiến dịch này qua tổ chức Boat People S.O.S.
Vào năm 1988, hội Y Sĩ Thế Giới và Boat People S.O.S. biệt phái tàu Mary Kingston đến vịnh Thái Lan để cứu vớt thuyền nhân. Trải qua nhiều năm dài, cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại đã không ngừng nghỉ trong nỗ lực thâu thập tài vật cũng như sự ủng hộ của chính khách địa phương để giúp đỡ đồng bào tị nạn. Vô số sinh hoạt đã được các đoàn thể thanh niên, sinh viên, học sinh và các hội đoàn từ Bắc Mỹ đến Âu Châu và Úc Châu tổ chức để vận động tài chánh cũng như chữ ký cho các bản thỉnh nguyện thư yêu cầu chính quyền địa phương tiếp tục cứu trợ thuyền nhân Việt Nam ở Ðông Nam Á.
Tại Bắc Mỹ, thảm trạng thuyền nhân đã tạo ra nhiều chia rẽ trong mạng lưới phản chiến trước đây. Không giống như giới trí thức Pháp, thành phần cánh tả có vai vế trong xã hội Hoa Kỳ như Noam Chomsky và Frances Fitzgerald đã cố ý im hơi lặng tiếng về vấn đề tị nạn Việt Nam. Như Triết gia Pháp André Glucksmann diễn tả: 'Hôm nay chính quyền cộng sản nhận chìm trẻ em. Hôm qua chúng ta phản đối. Hôm nay chúng ta im lặng,' (15) ngoại trừ ca sĩ Joan Baez và 83 nhà hoạt động vì hòa bình khác, đa số thành phần trí thức phản chiến đã lãnh đạm đối với thảm trạng thuyền nhân cũng như tệ nạn vi phạm nhân quyền trầm trọng của Hà Nội.
Vào tháng 5-1979, Joan Baez và 83 bằng hữu cho phổ biến 'Open letter to the Socialist Republic of Vietnam' ('Minh thư cho Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam) để vạch trần chính sách tiêu diệt quyền làm người của Hà Nội: 'Hàng ngàn người Việt Nam trong đó có nhiều người chỉ vì phổ biến tiếng nói lương tâm, đã bị bắt, giam cầm và tra tấn trong tù cũng như các trại cải tạo.. Chính quyền của các ông tạo ra một ác mộng đau khổ che lấp sự phát triển đã đạt được trong nhiều lãnh vực của xã hội Việt Nam.' (16) Một bộ phận phản chiến thiên tả khác đã vội vã lên tiếng công kích nhóm Joan Baez và ngụy biện cho tội ác của cộng sản Hà Nội. William Kunstler chụp mũ Joan Baez là 'tình báo CIA' ('CIA agent'); trong khi đó, Jane Fonda cho phổ biến thư phê bình Baez:
'Lời thuyết phục như vậy chỉ đưa bà vào hàng ngủ của các thành phần hẹp hòi và tiêu cực của đất
nước chúng ta vốn tiếp tục tin rằng chủ nghĩa cộng sản tệ hại hơn cái chết.' (17)
Trong các năm đầu của làn sóng tị nạn Việt Nam, một tổ chức đã tích cực đánh thức lương tâm nhân dân Hoa Kỳ về thảm trạng thuyền nhân là Ủy Ban Cứu Trợ Quốc Tế (International Rescue Committee hay IRC). Ðối diện với chính sách lãnh đạm của Hoa Thịnh Ðốn, IRC dưới sự lãnh đạo của Chủ Tịch Leo Cherne đã bảo trợ Ủy Ban Công Dân Ðặc Trách Tị Nạn Ðông Dương (Citizens Commission on Indochinese Refugees) vào cuối năm 1977 để vận động chính quyền cũng như Quốc Hội Hoa Kỳ giúp đỡ và định cư dân tị nạn tại Ðông Nam Á.
Sau chuyến công tác tìm hiểu sự thật ở Ðông Nam Á vào đầu năm 1978, Ủy Ban Công Dân Ðặc Trách Tị Nạn Ðông Dương vốn bao gồm nhiều thành viên nổi tiếng trong các lãnh vực tôn giáo, xã hội và kinh tế đã lên tiếng kêu gọi chính quyền Hoa Kỳ thâu nhận thêm thuyền nhân; song song, họ cũng đã thành công trong nỗ lực tiết giảm mối lo sợ về phản ứng bất lợi của dư luận. Hải trình thảm khốc của thuyền nhân Việt Nam bắt đầu được giới truyền thông quốc tế chú ý, và các chương trình tường thuật đã giúp đánh thức lương tâm cũng như lòng trắc ẩn của nhân loại. Trong khi báo Times của Luân Ðôn đề cập về sự kiện hàng ngàn dân tị nạn vô danh đã mất mạng trên biển vằo đầu năm 1978, báo New York Times tuyên bố là 'Nhiệm Vụ Việt Nam của Chúng Ta Chưa Hoàn Tất' (Our Vietnam Duty Is Not Over') và ủng hộ các đề nghị của Ủy Ban Công Dân Ðặc Trách Tị Nạn Ðông Dương.
Các lãnh tụ dân sự gốc Châu Phi cũng đã bày tỏ sự quan tâm của họ đối với thảm trạng thuyền nhân. Vào ngày 19-3-1978, 89 lãnh tụ thuộc các tổ chức quan trọng như National Urban League, the National Association for the Advancement of Colored People, v.v., đã cho phổ biến trên báo The New York Times lời kêu gọi tòa Bạch -c cũng như Hạ Nghị Viện thâu nhận 'anh chị em Á Châu của chúng ta tại các trại tị nạn' ('our Asian brothers and sisters in the refugee camps.')
Dưới áp lực của các nỗ lực vận động này, tòa Bạch -c quyết định duyệt xét toàn bộ chính sách di trú. Vào tháng 3-1978, chính phủ Carter đề nghị tu chính luật Di Trú và Công Dân (Immigration and Nationality Act) để nhận thêm 50.000 người tị nạn mỗi năm với ý định sẽ dùng 50% số lượng đó nhằm định cư dân tị nạn Ðông Dương. (Vì trở ngại tài chánh, phải đợi đến tháng 6-1978 thì số lượng 25.000 dân tị nạn Ðông Dương hưởng quy chế ân xá này mới được chấp thuận.) Hàng trăm ngàn thuyền nhân cũng đã được nhiều tổ chức thiện nguyện cũng như các nhà hảo tâm khác cứu trợ trong đó có cộng đồng người Việt hải ngoại, đoàn thể và ân nhân ngoại quốc. Một trong các thiện nguyện viên đã tích cực lo cho dân tị nạn Việt Nam là nhà tu hành tên Joe Devlin, một người đã tận tụy giúp đỡ thuyền nhân ở Songkhla Refugee Camp và các trại khác kể cả trại bộ nhân trong nhiều năm dài. Một nỗ lực đáng ghi nhớ của vị linh mục khả kính này là sự hình thành nhà dưỡng dục các trẻ em không thân nhân tại trại tị nạn Songkhla. (18) Nhà văn Nhật Tiến đã từng ca ngợi tấm lòng hy sinh cao cả của Linh mục Devlin vì ông 'chia xẻ sự phiền não, đau khổ, sự
khốn cùng của một dân tộc đã trải qua sự sụp đổ đột ngột và tàn bạo của miền Nam tự do.' (19) Nhà tu hành Joe Devlin là một trong vô vàn các nhà hảo tâm đã bỏ thời gian cũng như tài lực để giúp đỡ thuyền nhân, và dân tộc Việt Nam luôn luôn trân trọng ghi nhận sự tận tụy bác ái của họ.
※ Source: Thuyền Nhân: Ấn Tích Lịch Sử ۩ Lloyd Duong Ͼ 2000
___________
Phụ Chú:
1 Danh từ này do báo Le Monde của Pháp đặt rạ Tờ báo này từng ủng hộ triệt để nỗ lực cưỡng chiếm miền Nam của đảng Cộng Sản Việt Nam.
2 Chính sách tống xuất dân Việt Nam của Hà Nội đã được nhiều lãnh tụ trên thế giới như Ngoại Trưởng Phi Luật Tân là Carlos Romulo gọi là chính sách sát nhân tương tự như chủ trương hoả thiêu dân Do Thái của Hitler (Carlos Romulo characterized it as 'another form of inhumanity, equal in scope and similarly heinous' to the holocaust) tại Hội Nghị Ngoại Trưởng ASEAN vào tháng 2-1979. Ngoại Trưởng Singapore là Sinnathamby Rajaratnam đã tuyên bố rằng chính sách của Hà Nội là 'phương tiện (sát nhân) của một thằng nghèo dùng biển cả thay vì hỏa ló ('a poor man's alternative to the gas chambers is the open sea').
3 '.. The boat people are not merely another desperate swarm of 'displaced persons,' but the victims and indicators of a profound regional instabilitý Bruce Grant, The Boat People: An Age Investigation, Penguin Books, Melbourne 1979.
4 Trước khi chiến dịch buôn dân tàn nhẫn có kế hoạch do đảng Cộng Sản Việt Nam trực tiếp chỉ đạo bị thế giới vạch trần.
5 Theo Phó Thủ Tướng Mã Lai Mahathir Mohamad.
6 Lý Quang Diệu lúc còn làm Thủ Tướng của Singapore đã dùng thuyết 'lôi kéó để lý luận rằng chính sách giúp đỡ thuyền nhân Việt Nam là một chính sách tàn nhẫn bởi vì làm như vậy sẽ khuyến khích hay lôi kéo thêm nhiều người ra đị Ông ta vô tình hay cố ý quên rằng còn một động cơ 'xua đuổí thuyền nhân Việt Nam vượt biên: chính sách ý thức hệ cộng sản đặt trên nền tảng bạo lực dã man của Hà Nộị Bất cứ giải pháp nào muốn giải quyết bài toán tị nạn Việt Nam một cách có hiệu quả cần phải quan tâm đến cả hai yếu tố 'lôi kéó và 'xua đuổí.
7 '(Socialist Vietnam) is failing to ensure the human rights of its peoplẹ Its callous and irresponsible policies are compelling countless citizens to forsake everything they treasure, to risk their lives, and to flee into the unknown.'
8 'In the final analysis, the problem of Indochinese refugees has risen solely as a resultvof the fact that the Vietnamese government is pursuing a policy of aggression and war...vthey press-ganged their young people into serving as cannon-folder and bled the people whitẹ This has ruined the economy and made the people destitutẹ Consequently, large numbers of Vietnamese inhabitants have had to flee the countrý.
9 Bruce Grant, The Boat People: An 'Agé Investigation, Penguin Books, Miđlesex, England 1979, at pp.195-197.
10 'The story of the boat people exposes power politics in its most primitive form. While men and women of goodwill hopefully discuss the prospect in the last quarter of the twentieth century of a 'new world order' or a 'common heritage of mankind,' the boat people have revealed another side - the ruthless of major powers, the brutality of nation-states, the avarice and prejudice of peoplẹ At times, when telling the story of the boat people, it seemed that Indochina had become the vortex of all that is wrong with mankind... The ability of governments of the industrialized democracies to weep crocodile tears over the boat people, while doing little about the root causes of the exodus, has been notablẹ The boat people have indeed made us all look again at ourselves and at the state of our world.'
11 Mã Lai không cho tàu chuyển thuyền nhân xuống trại tị nạn cho đến khi có quốc gia bảo đảm là họ sẽ được định cư sớm.
12 'Some of them have not always been on our side, but for the moment we are not interested in their politics, but in saving their lives. It's a moral issue, a question of morality between human beings.'
13 'The Vietnamese refugees are the fall-out of two lines of warlike discourse - Both stem from Hegel - the communist thesis and the anti-communist thesis. They come to the same thing in the end.'
14 Trong vòng chín năm từ năm 1979 đến năm 1988 qua năm chiếc tàu từ Cap Anamur I đến Cap Anamur V, hơn 13,000 thuyền nhân đã được chiến dịch nhân đạo Cap Anamur cứu vớt.
15 'Today the communist authorities drown other babies. Yesterday we protested. Today we are silent.'
16 'Thousands of innocent Vietnamese, many whose only crimes are those of conscience, are being arrested, detained and tortured in prisons and re-education camps.. Your government has created a painful nightmare that overshadows significant progress achieved in many areas of Vietnam societý.
17 'Such rhetoric only aligns you with the narrow and negative elements in our country who continue to believe that communism is worse than death.'
18 Nhat Tien, Duong Phuc, Vu Thanh Thuy, Pirates on the Gulf of Siam, 2nd Edị, Boat People S.ỌS., San Diego 1981, at p. 93.
19 Father Joe Devlin 'shares in the grief, the pains, the distress of a people who experienced the suđen and violent fall of the entire free Vietnam of the South.'
In response to the Vietnamese refugee tragedy, the peoples around the world staged one of the greatest rescue efforts in mankind history. The boat people’s sufferings awoke human conscience and invoked individual compassion in the hearts and minds of citizens around the globe and led them to engage in a massive humanitarian campaign to assist Asylees in Southeast Asia. The boat people’s sufferings also exposed the most inhuman and ugliest side of power politics as played out by the superpowers and various nations in their attempt to circumvent international collective obligations. While individual citizens’ endeavor to help the boat people was guided by compassion and humanitarianism, governments’ policies lacked any clear direction and reflected bitter political bickering.
Hanoi’s huge ‘Vietnamese gulag’[1]and ‘policy of genocide’[2] pushed millions of people to attempt seeking asylum elsewhere. Within eight months following the fall of Saigon, of the unknown Vietnamese escapees, 378 boat persons reached safety. In 1976, the number escalated to 5,569; in July of that year, the UNHCR issued its first appeal to the international community to help the boat people. A year later, 17,126 Vietnamese asylum-seekers arrived at various ports in Southeast Asia; and that number increased to 87,164 in 1978 and reached its peak at 201,189 in 1979. Michael Davie, Editor of The Age, asserted in October 1979 that: ‘.. the boat people are not merely another desperate swarm of “displaced persons,” but the victims and indicators of a profound regional instability.’[3]
Despite the urgent nature of the boat people tragedy, however, most governments’ pre-1979 reaction[4]was apathetic due to a lack of leadership that was often provided by the United States during major humanitarian crises. The Wall Street Journal characterized this indifferent response to the Indochinese refugee tragedy during the early years as ‘a scandal in the house of decent men.’ The U.S. phlegmatic policyreflected the then ‘no more Vietnam’attitude after the fall of Saigon in 1975. Washington adopted an ad hocpolicy with no clear direction in dealing with the Southeast Asian refugee issue.
The U.S. Attorney General exercised his parole power designed for emergencies to admit and resettle the boat people. However, as the number of Vietnamese refugees increased, the newly-elected Carter administration felt compelled to request additional parole authorizations even though the former Ford cabinet had indicated to Congress that the May 1976 parole for Indochinese refugees (mainly for Laotians) would be the last. The additional August 1977 parole for 7,000 Vietnamese and 8,000 Laotians could not cope with the continuing increase in the number of arriving boat people. And thus, on January 25, 1978, a new parole was again announced by the U.S. Attorney General.
Notwithstanding the volcanic magnitude of the Indochinese refugee crisis, the U.S. government failed to develop a clear policy to deal with this new development in Southeast Asia. The American lack of leadership led other nations to the same path in dealing with the Indochinese refugee crisis. Washington wanted to internationalize the boat people issue so that other nations would jointly assist the resettlement process; however, the U.S. lack of enthusiasm and halfhearted reception of refugees caused other nations to react in a similar fashion. Most governments were reluctant to get involved in what they viewed initially as an American problem brought about by the U.S. betrayal of its ally, South Vietnam. Therefore, by the early 1978, many nations had not resettled one single boat person, and the unsettled refugees quickly became a residual problem for first-asylum countries, which wanted assurance that ‘every single refugee would be resettled within a reasonable time.’[5] The apathetic government response during the initial years of the exodus eventually led to adverse consequences, including the first-asylum countries’ decision to withdraw their offer of temporary shelters for the boat people and to prolong the refugees’ detention prior to resettlement purposely to discourage potential Asylees from leaving Socialist Vietnam.[6]
With the exception of China, the communist camp accused the non-socialist world of ‘pulling’ the refugees out from Vietnam. Before the collapse of the Soviet Union in 1991, Moscow’s official position was that the boat people tragedy represented a continuation of the Vietnam War. Beijing and Washington allegedly caused the exodus because of the refusal to recognize the reality of the ‘new Vietnam.’ China was blamed to have agitated Sino-Vietnamese with misinformation, and the U.S. was accused of exploiting the exodus to discredit Socialist Vietnam. Beijing allegedly portrayed the outflow as a consequence of Hanoi’s ‘racist’ policies in order to hinder Vietnam’s socialist reconstruction efforts. On the other hand, Washington deceptively commissioned warships to Southeast Asia supposedly to help the boat people but, in fact, such a campaign was aimed at encouraging more illegal escapes in order to promote antagonism among Asian states to retain the U.S. strategic influence in the region. Moscow asserted that the only solution to the refugee exodus lied with the eradication of the Chinese and U.S. propaganda war and ‘pull’ factors.
The United States rejected the Soviet accusation and cited Hanoi’s human rights violations as the root cause of the mass departure. At the U.N. Conference on July 21, 1979, Vice President Walter Mondale asserted that: ‘(Socialist Vietnam) is failing to ensure the human rights of its people. Its callous and irresponsible policies are compelling countless citizens to forsake everything they treasure, to risk their lives, and to flee into the unknown.’ On the other hand, China cited Hanoi’s ‘policy of aggression and war’as the principal reason leading to the exodus. On June 16, 1979, a spokesperson for the Ministry of Foreign Affairs articulated Beijing’s position: ‘In the final analysis, the problem of Indochinese refugees has risen solely as a result of the fact that the Vietnamese government is pursuing a policy of aggression and war… they press-ganged their young people into serving as cannon-folder and bled the people white. This has ruined the economy and made the people destitute. Consequently, large numbers of Vietnamese inhabitants have had to flee the country.’
While the superpowers and concerned states debated the cause of the boat people exodus and blamed each other for the on-going failure to formulate and implement an effective solution, few actions were undertaken to help Vietnamese refugees who continued to perish at sea in search of liberty. In 1979, Diplomat Bruce Grant eloquently described this catastrophic situation: [7]
‘The story of the boat people exposes power politics in its most primitive form. While men and women of goodwill hopefully discuss the prospect in the last quarter of the twentieth century of a “new world order” or a “common heritage of mankind,” the boat people have revealed another side – the ruthless of major powers, the brutality of nation-states, the avarice and prejudice of people. At times, when telling the story of the boat people, it seemed that Indochina had become the vortex of all that is wrong with mankind…
… The ability of governments of the industrialized democracies to weep crocodile tears over the boat people, while doing little about the root causes of the exodus, has been notable. The boat people have indeed made us all look again at ourselves and at the state of our world.’
Unlike various governments’ phlegmatic reactions fueled by political calculations, ordinary citizens and non-governmental organizations around the world were incredibly enthusiastic and wholeheartedly responsive in the campaign to evacuate and resettle Vietnamese boat people. As early as 1977, the Roland was dispatched by the World Conference on Religion and Peace (WCRP) to Southeast Asia to rescue refugee boats drifting at sea. Despite the UNHCR’s characterization of the mission as ‘misguided philanthropy,’the WCRP consisted of representatives from all major religions continued its humanitarian endeavor and eventually evacuated 300 Asylees. Malaysia refused to allow the Roland to drop off the refugees; and it took sometime to arrange for resettlement places before the Asylees could disembark in June 1977.
The World Conference on Religion and Peace was not the only religious organization that commissioned ships to help the boat people, other notable contributions were from California-based World Vision International which sent the Seasweep to assist the encamped Asylees. The Seasweep was granted permission by Indonesia to ferry the refugees from isolated coves, where bad weather would effectively cut off their supply, to two centres on Jemaja Island. In July 1979, the Seasweep saved numerous refugees who were put on unseaworthy crafts and towed to international waters by the Malaysian Navy.
In Europe, Philosopher Jean-Paul Sartre appealed to the French government to help Vietnamese Asylees: ‘Some of them have not always been on our side, but for the moment we are not interested in their politics, but in saving their lives. It’s a moral issue, a question of morality between human beings.’ The boat people tragedy brought many old adversaries together and facilitated the reconciliation of their conflicting views. On June 20, 1979, Jean-Paul Sartre smiled at and shook the hand of his long-time political opponent, Writer Raymond Aron, whose view he bitterly objected since the Algerian war. Jean-Paul Sartre’s appeal on behalf of the boat people was joined by many other intellectuals, noticeably anti-war activist André Glucksmann who later opinionated in his book The Discourse of War: ‘The Vietnamese refugees are the fall-out of two lines of warlike discourse… Both stem from Hegel - the communist thesis and the anti-communist thesis. They come to the same thing in the end.’
Médecins du Monde in Paris sent the Ile de Lumière to the Gulf of Thailand on a rescue mission and to provide medical care for encamped refugees on Bidong Island in 1979. The Ile de Lumière’s mission was continued by the Alcune II in 1981, the Le Goela in 1982, the Jean Charcotin 1985, and then the Rose Schiaffinoin 1987.
Under amounting public pressure, Italy commissioned two Navy cruisers and a supply vessel to evacuate and resettle up to 1,000 boat people in mid-1979. In West Germany, Ein Schiff fuer Vietnam (A Ship for Vietnam Committee)[8]was incepted in July 1979 and thereafter dispatched the Cap Anamur provided by a benefactor, Mr. Hans Voss, to the South China Sea to assist Vietnamese refugees. The German public donated more than 21 million Deutsche marks to the Cap Anamur’s humanitarian projects in Southeast Asia. In April 1987, Ein Schiff fuer Vietnam, renamed Komitee Cap Anamur, combined its resources with Médecins du Monde and commissioned the joint French-German Ile de Lumière II - Cap Anamur III to continue its mission with the overseas Vietnamese community’s generous financial support
In 1988, Médecins du Monde and the Vietnamese Boat People S.O.S. Committee sent out the Mary Kingston to the Gulf of Thailand to rescue and help the escaping Asylees. Over the years, the resettled Vietnamese refugee community tirelessly campaigned on behalf of the defenseless boat people. Countless events were held by Vietnamese students and other non-profit groups in Australia, Canada, Europe and the United States to gather financial donations and signatures for petitions to support the Asyless in Southeast Asia.
In North America, the boat people tragedy effectively split the old anti-war network. Unlike the French peace activists, notable American leftist intellectuals such as Noam Chomsky and Frances Fitzgerald were incredibly silent on the Vietnamese refugee issue. As French philosopher André Glucksmann put it, ‘Today the communist authorities drown other babies. Yesterday we protested. Today we are silent,’with the exception of folk-singer Joan Baez and 83 other peace activists, most U.S. anti-war intellectuals were strangely quiescent when it came to the boat people tragedy and Hanoi’s human rights record.
In May 1979, Joan Baez published an ‘Open letter to the Socialist Republic of Vietnam’ co-signed by 83 other former anti-war activists criticizing Hanoi’s serious violations of human rights: ‘Thousands of innocent Vietnamese, many whose only crimes are those of conscience, are being arrested, detained and tortured in prisons and re-education camps… Your government has created a painful nightmare that overshadows significant progress achieved in many areas of Vietnam society.’ In response, another faction within the former anti-war network quickly voiced its objection to Baez's letter. William Kunstler labeled Joan Baez a ‘CIA agent’ while Jane Fonda issued her own statement to denounce Baez: ‘Such rhetoric only aligns you with the narrow and negative elements in our country who continue to believe that communism is worse than death.’
During the initial years of the boat people exodus, however, much of the credits had to be conferred to the voluntary agency International Rescue Committee, which worked dedicatedly and diligently to awake the American conscience to the Indochinese refugee tragedy. In light of Washington’s lack of leadership, the IRC under Leo Cherne's leadership formed the Citizens' Commission on Indochinese Refugees in December 1977 to lobby the U.S. government and Congress to implement a generous policy to assist and resettle the asylum-seekers.
Following a fact-finding mission to Southeast Asia in early 1978, the Citizens' Commission whose membership included many prominent religious, civic and business leaders urged the U.S. government to admit more boat people while successfully dispelled fears of public backlash. The tragic flight of the Vietnamese boat people also attracted immense international press coverage. While the Timesof London reported on the unknown thousands who perished at sea in early 1978, the New York Times declared in an editorial that 'Our Vietnam Duty Is Not Over' and publicly endorsed the Citizens' Commission's recommendations.
The African American leadership was also sympathetic to the boat people’s cause. In a statement published in The New York Times on March 19, 1978, eighty-nine leaders of various African American organizations such as the National Urban League, the National Association for the Advancement of Colored People, etc., called upon the U.S. Administration and Congress to admit ‘our Asian brothers and sisters in the refugee camps.’ As a result of these efforts, the White House undertook a comprehensive review of its policy in this area; and consequently on March 30, 1978, it recommended the admission of up to 25,000 Indochinese refugees over a period of year.[9]
Thousands of encamped boat people also benefited greatly from the charitable services of many overseas Vietnamese and foreigners, one of whom was a devoted American Catholic priest named Joe Devlin. Father Devlin volunteered to come to Thailand and worked selflessly for the Asylees in Songkhla Refugee Camp and other centers. One of Father Devlin’s noted accomplishments was his establishment of a day care for unaccompanied children in Songkhla Refugee Camp.[10] In the words of writer NhÆt Ti‰n, who observed the American priest’s affection for the boat people, Father Devlin ‘shares in the grief, the pains, the distress of a people who experienced the sudden and violent fall of the entire free Vietnam of the South.’ Father Joe Devlin was one of countless volunteers who spent time to help the encamped Asylees in Southeast Asia, and the Vietnamese people are indebted to their selfless dedication.
※ Source: The Boat People: Imprints on History ۩ Lloyd Duong Ͼ 2000
___________
[1] A term coined by France’s Le Monde, once a staunch supporter of Hanoi’s military cause in South Vietnam.
[2] Hanoi’s policy toward Vietnamese refugees was compared to Hitler’s systematic murder of the Jews by Filipino Foreign Minister Carlos Romulo in February 1979 at the ASEAN annual meeting. His Singapore’s counterpart Sinnathamby Rajaratnam publicly characterized Hanoi’s strategy toward the boat people as ‘a poor man’s alternative to the gas chambers is the open sea.’
[3] Bruce Grant, The Boat People: An Age Investigation, Penguin Books, Melbourne 1979.
[4] Before Hanoi's organized trade of ship people was exposed.
[5]According to Malaysian Deputy Prime Minister Mahathir Mohamad.
[6] Singapore’s Prime Minister Lee Kuan Yew even put forth a ‘pull’ theory arguing that it was cruel to shelter the arriving boat people because such a welcoming act would encourage more departures. On the other side of the coin, there was also a ‘push’ factor: the boat people were forced to leave by Hanoi’s ideological policies. Any effective strategy to deal with the boat people crisis had to take into consideration both factors. (See Chapter IV).
[7] Bruce Grant, The Boat People: An ‘Age’ Investigation, Penguin Books, Middlesex, England 1979, at pp.195-197.
[8] Between 1979 and 1988, over 13,000 Vietnamese boat people were rescued by the Cap Anamur endeavor.
[9] This parole for 25,000 Indochinese refugees was not finalized until June 1978 due to financial constraints.
[10] Nhat Tien, Duong Phuc, Vu Thanh Thuy, Pirates on the Gulf of Siam, 2nd Edi., Boat People S.O.S., San Diego 1981, at p. 93.
Chính sách của đảng Cộng Sản Việt Nam sau 1975, như đã bàn trong Chương I về
nguyên nhân ly hương của thuyền nhân, là trục xuất khoảng 2 đến 3 triệu người Việt
bao gồm nhiều thành phần ra khỏi nước để tân chính phủ có thể bình định tình hình
chính trị tại miền Nam. Vào tháng 7-1979 tại Hội Nghị Quốc Tế về Tị Nạn Ðông Dương I
ở Geneva, Thứ Trưởng Ngoại Giao Phan Hiền của Hà Nội tiết lộ cho phái đoàn Thụy
Ðiển biết là khoảng 3 triệu đồng bào miền Nam vốn đã quen thuộc với đời sống tự do
chính trị và kinh tế có thể phải rời khỏi guồng máy xã hội chủ nghĩa; lượng định này đã
được Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cơ Thạch tái xác nhận trong cuộc phỏng vấn với ký
giả thuộc United Press International (số người phải ra đi 'tùy theo tình hình chính trị' có
thể lên đến 3 triệu )[20] và trong buổi nói chuyện với Daniel K. Akaka, một thành viên
trong phái đoàn Hạ Viện Hoa Kỳ do Nghị Sĩ Benjamin Rosenthal dẫn đầu viếng thăm Hà
Nội hai ngày vào tháng 8-1979.
Trong khi tiến hành chính sách bất nhân kể trên, ngoài chiến thuật giảm bớt nỗ lực kiểm
soát hải phận quốc gia và tung tin thất thiệt để khuyến khích các thành phần 'phản cách
mạng' ra đi (điển hình là tin đồn 'ra tới hải phận quốc tế là gặp tàu Mỹ vớt' bởi vì Ðệ
Thất Hạm Ðội của Hoa Kỳ tích cực giám sát biển Ðông nhằm cứu giúp thuyền nhân
trong khi trên thực tế chiến hạm Mỹ thường xuyên trốn tránh ghe tị nạn vì Hoa Thịnh
Ðốn lúc đó rất thờ ơ đối với vấn đề tị nạn Ðông Dương do chủ trương 'No More Viet
Nam' [21] sau năm 1975, v.v.), đảng Cộng Sản cũng bắt đầu nhận thức được là chế độ
có thể gom góp được nhiều 'của chìm' của thành phần trung lưu và thượng lưu Việt
Nam bằng cách tổ chức và bảo đảm những đường dây vượt biên an toàn cho họ. Bị chói
mắt bởi số lượng tài sản khổng lồ của đồng bào miền Nam sau hai đợt đánh tư sản, giới
lãnh đạo Hà Nội vội vã ra lệnh cho công an Bộ Nội Vụ bắt liên lạc với đám gian thương
quốc tế để sắp xếp đưa ra biển các kiện hàng người Việt lẫn Hoa kiều hầu có thể vơ vét
thêm nhiều 'của chìm.'
Kế hoạch mại dân của Hà Nội dành ưu tiên cho người Việt gốc Hoa; [22] và dân Việt
chính gốc phải trả giá đắt hơn nếu muốn tham gia đường dây vượt biên an toàn. Kế
hoạch buôn người được thực hiện trong giai đoạn nhiều chính quyền lân bang trở nên
cởi mở hơn trong chính sách đối xử với dân tị nạn Việt Nam. Vào khoảng tháng 3-1978,
các quốc gia Ðông Nam Á như Mã Lai, Thái Lan, v.v., công khai tuyên bố là vì lý do
nhân đạo cho nên sẵn sàng chấp nhận cho những người ra đi tìm tự do được tạm trú
trong khi chờ đợi cơ hội định cư tại đệ tam quốc gia; một trong các yếu tố đưa đến chủ
trương cởi mở này là sự phẩn nộ của cộng đồng nhân dân thế giới đối với thảm trạng
hải tặc hành hạ và sát hại thuyền nhân.
Hai năm 1978 và 1979 đã mục kích không những tội ác tàn bạo của hải tặc đối với dân
tị nạn mà còn cả chiến dịch buôn dân Việt và Hoa kiều độc nhất vô nhị do đảng Cộng
Sản Việt Nam trực tiếp chỉ đạo.[23] Vào tháng 6-1979, Bộ Trưởng Ngoại Giao của
Singapore là Sinnathamby Rajaratnam đã tố cáo Hà Nội sử dụng lá bài 'người Việt gốc
Hoa' bởi vì CHXHCNVN 'biết là hầu như tất cả các quốc gia thuộc ASEAN có những khó
khăn tế nhị đối với cộng đồng thiểu số Hoa kiều địa phương. Số lượng tị nạn Hoa kiều
khổng lồ xâm nhập vào các quốc gia này chỉ có thể phóng đại các kích động chủng tộc
và, nếu cung lượng này tiếp tục tuôn trào lâu dài, sẽ đưa đến chiến tranh chủng tộc vốn
có thể tàn phá các xã hội này nhanh chóng và hiệu quả hơn bất cứ đội quân Việt Nam
xâm lược nào. Trong khoảng khắc sự thịnh vượng, ổn định và đoàn kết của ASEAN sẽ
tiêu tan vào lớp khí mỏng và điều kiện sống sẽ xuống cấp ngang hàng các tiêu chuẩn
đang hiện hữu tại Ðông Dương ngày nay.'[24]
Công an chìm thuộc Bộ Nội Vụ đóng đô tại Hà Nội đã tích cực tổ chức các kiện hàng đầy
người toàn quốc để đưa ra biển trong hai năm 1978 và 1979. Chúng sử dụng một số
thường dân làm cò mồi để bắt mối với Hoa kiều cũng như người Việt chính gốc giàu có
cho chiến dịch buôn bán lương dân đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Người Việt tham gia
chương trình buôn dân của Hà Nội bị đòi hỏi trả giá cao hơn Hoa kiều (có thể lên đến
50% cao hơn giá bình thường) mới đi được bởi vì phải qua nhiều cửa ngỏ hơn cũng như
phải làm hồ sơ giả danh gia đình gốc Tàu. Một số trung tâm buôn người quan trọng của
đảng Cộng Sản Việt Nam nằm ở Long Thành, Ðà Nẵng, Hải Phòng, Rạch Giá, Trà Vinh
và Vĩnh Long. Vào thời điểm bận rộn nhất của chiến dịch buôn dân, công an Hà Nội đã
thẳng tay đàn áp và ngăn chận các nỗ lực vượt biên 'chui' để bảo vệ ngai vị độc tài của
đảng trong việc thâu thập vàng cũng như quý kim từ những người có ý định ra đi.[25]
Trước khi đảng Cộng Sản Việt Nam hợp tác với mạng lưới Hoa kiều bất lương ở nước
ngoài để 'buôn lậu khổ cảnh con người' ('traffic in human misery')[26] vào giữa năm
1978, hầu hết thuyền nhân đến được bờ bến tự do đều có thể xin tị nạn tạm thời trong
khi chờ đợi được định cư tại một quốc gia thứ ba mà ít gặp sự chống đối của các cộng
đồng địa phương.[27] Nhiều dân làng tại các quốc gia láng diềng đã vui vẻ giúp đỡ ghe
tị nạn Việt Nam; họ cung cấp thực phẩm cũng như hướng dẫn thuyền nhân cách liên lạc
với chính quyền địa phương để xin được đưa đến các trại tị nạn. Sự niềm nở này biến
mất khi Hà Nội tiến hành kế hoạch buôn dân để thâu vàng và quý kim. Lá bài hàng-vận
nhân (ship people) của đảng Cộng Sản Việt Nam xuất hiện vào giữa năm 1978 khiến
thảm trạng thuyền nhân thêm phức tạp.
Hậu quả tác hại của hiện tượng hàng-vận nhân do Hà Nội sáng tạo là phản ứng chống
đối để tự vệ của các cộng đồng nhân dân và chính quyền lân bang; họ bắt đầu đối xử
với thuyền nhân bằng thái độ thù nghịch. Dân tị nạn đến từ Việt Nam [28] - trong đó có
khoảng 1/4 là người Việt gốc Hoa - không còn được niềm nở trợ giúp như trước bởi vì
người địa phương bắt đầu lo sợ ảnh hưởng của làn sóng Hoa kiều vốn đã hoặc đang
kiểm soát các động cơ kinh tế tại đất nước họ. Thảm trạng thuyền nhân trở nên thê
thảm hơn tại một vài vùng, đặc biệt là ở Mã Lai, khi người tị nạn bị dân địa phương ném
đá cũng như dùng cây đánh đập tàn nhẫn. Tuy vậy thay vì giảm đi, làn sóng thuyền
nhân lại vẫn tiếp tục gia tăng bất kể cái chết trên biển cả, sự tàn bạo của hải tặc cũng
như chính sách ngược đãi của các quốc gia láng diềng. Trong bài chúc tết năm 1979,
Thủ Tướng Lý Quang Diệu của Singapore đã yêu cầu các lãnh tụ trên thế giới nên tích
cực phản đối chính sách trục xuất lương dân bất nhân của Hà Nội:
'Ðợt sóng thuyền nhân và hàng-vận nhân gần đây là kết quả của các hành động tính
toán lạnh lùng, dựa trên vàng, và nhiều năm sau khi nhiệt độ chiến tranh đã nguội. Một
điềm xấu sẽ xảy ra nếu lãnh tụ thế giới cũng như giới lãnh đạo cầm bút không phổ biến
sự tức giận của họ đối với phương pháp xua đuổi gay gắc thành phần công dân vô thừa
nhận, nhiều nạn nhân nữa sẽ bị tống xuất trên các thuyền hay tàu đầy ắp.'[29]
※ Source: Thuyền Nhân: Ấn Tích Lịch Sử ۩ Lloyd Duong Ͼ 2000
Phụ Chú:
20 UPI report. Quoted in Barry Wain's 'The Refused: The Agony of the Indochina
Refugees,' Simon and Schuster, New York, 1981, at p.231.
21 Tổng Thống Carter chỉ ra lệnh cho Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ tìm kiếm và cứu vớt
thuyền nhân đang gặp hoạn nạn trên biển sau hội nghị quốc tế về tị nạn Ðông Dương I
vào tháng 7-1979 trong nỗ lực quốc tế hóa cuộc khủng hoảng tị nạn Ðông Dương nhằm
lôi kéo các quốc gia khác tham gia vào chương trình cứu trợ tị nạn tại Ðông Nam Ạ
Trong khoảng thời gian 4 năm từ tháng 5-1975 cho đến tháng 8-1979, hải quân Hoa Kỳ
tại Ðông Nam Á tránh né công tác nhân đạo nàỵ
22 Chủ trương ưu tiên cho Hoa kiều này phản ảnh một phần sự xung đột chính trị giữa
Hà Nội và Bắc Kinh vào thời điểm đọ Dĩ nhiên là Hà Nội cũng lo ngại về một đội quân
thứ năm trong cộng đồng người Việt gốc Hoa, nhưng mối lợi 'của chìm' khổng lồ chính
là lý do đã đưa đến kế hoạch buôn lậu lương dân bất nhân của đảng Cộng Sản Việt
Nam. Suốt hai năm 1978 và 1979, chương trình 'hiến của để đí của Hà Nội được tổ chức
âm thầm nhưng quy mô và tỏa rộng toàn quốc.
23 Tưởng cũng cần ghi lại ở đây là chính sách buôn người của Hà Nội khi phổ biến
xuống địa phương đã không được thực hiện thuần nhất. Hầu như đa số các thuyền
được Bộ Nội Vụ cấp giấy phép cho ra khơi đều phải chở nhiều người hơn số lượng cho
phép bởi vì các ông vua con địa phương muốn 'ăn vá thêm. Một vài đảng viên cao cấp
như Tỉnh Ủy đã mang cả bao bố vàng lá để vượt biên cùng gia đình sau các đợt ăn chận
trung ương nàỵ
24 The communists in Hanoi 'picked on' Chinese Vietnamese 'because they know that
almost all ASEAN countries have delicate problems with their Chinese minorities. The
massive unloading of Chinese refugees onto these countries can only exacerbate racial
sensitivities and, if the flow is sustained long enough, lead to racial warfare which could
tear these societies apart quicker and far more effectively than any invading Vietnamese
armỵ In no time ASEAN prosperity, stability and cohesion would vanish into thin air and
conditions of life would soon be on par with those now prevailing in Indochiná
25 Theo lời khoe của Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cơ Thạch với phái đoàn Hạ Viện
Hoa Kỳ do Nghị Sĩ Benjamin Rosenthal dẫn đầu viếng thăm CHXHCN Việt Nam vào
tháng 8-1979 thì chỉ trong vòng 7 tháng đầu năm 1979 (vốn là cao điểm của chiến dịch
buôn người) Hà Nội đã truy tố ít nhất là 4.000 vụ vượt biên trái phép, tức là khoảng vài
chục ngàn 'dân đi chuí đã bị cầm tù nếu chúng ta chỉ khiêm tốn phỏng tính là đa số các
vụ vượt biên bí mật do đồng bào tự tổ chức khó kéo theo quá vài chục ngườị
26 Câu nói này do Ðệ Nhất Thư Ký của Hồng Kông là Sir Jack Cater phát biểu ('those
who traffic in human miserý).
27 Trước chiến dịch buôn dân của Hà Nội vào giữa năm 1978, Mã Lai và Thái Lan thỉnh
thoảng xua đuổi ghe tị nạn ra hải phận quốc tế, nhưng luôn luôn cho thuyền nhân Việt
Nam cập bến nếu ghe của họ gặp trục trặc; và đa số ghe tị nạn rất mỏng manh và củ kỷ
cho nên thường bi hư hại sau vài ngày trên biển. Chính sách tạm cư này phản ảnh lònh
nhân đạo của nhân dân địa phương bởi vì vào giai đoạn niên kỷ 1970, không một quốc
gia Ðông Nam Á nào ký kết vào Công Ước liên quan đến Tư Cách Tị Nạn năm 1951
(1951 UN Convention relating to the Status of Refugees) và Hiệp Ðịnh Thư liên quan
đến Tư Cách Tị Nạn năm 1967 (1967 UN Protocol relating to the Status of Refugees).
(Chính phủ Phi Luật Tân đồng ý ký vào hai văn kiện này vào tháng 7-1981, và nhờ vậy
chính sách sau này của Manila đối với thuyền nhân Việt Nam tương đối đỡ khắc nghiệt
hơn.)
28 Bruce B. Dunning, Vietnamese in America: The Adaptation of the 1975-1979 Arrivals,
in Refugees As Immigrants, Edị by David W. Haines, Rowman & Littlefield Publishers,
Inc., New Jersey 1989, at p.60. Furthermore, most Sino-Vietnamese or ship people left
in larger crafts and old foreign-registered ships operated by overseas Chinese racketeers
under contract with Hanoi between miđ1978 and late 1979.
29 'The latest exodus of 'boat peoplé and 'ship peoplé is the result of acts of cold
calculation, measured in gold, and long after the heat of battle has cooled. What is
ominous is that unless world leaders and leader-writers register their outrage at this
cynical disposal of unwanted citizens, many more victims will be sent off on packed
boats or ships.'
Vào tháng 12-1978, tàu Huey Fong cập bến Hồng Kông với một kiện hàng gồm 3.318 người do đảng CSVN xuất cảng.
(Hong Kong Government Information Services)
The Communist Party of Vietnam's post-1975 policy, as previously discussed in Chapter I concerning the root cause of the boat people exodus, was to expel between 2 million to 3 million Vietnamese of diverse backgrounds in order for the new regime to achieve political stability in the South. Hanoi’s Deputy Foreign Minister Phan HiŠn told the Swedish delegation to the U.N. conference on Indochinese refugees in Geneva in July 1979 that some 3 million South Vietnamese, who had become accustomed to political freedom and economic autonomy, might have to leave Socialist Vietnam; and this position was confirmed later by Foreign Minister NguyÍn CÖ Thåch in an interview with United Press International in August 1979 (up to 3 million would escape ‘depending on the political situation’)[1] and during a discussion with Daniel K. Akaka, a member of the U.S. House of Representatives delegation headed by Congressman Benjamin Rosenthal visiting Hanoi for two days in 1979.
During the implementation stage of this inhumane policy, beside relaxing border patrol and disseminating misinformation to induce dissidents to leave, the Communist Party also recognized in early 1978 that the regime could get at the hidden assets of affluent Vietnamese and ethnic Chinese by arranging and guaranteeing safe passages to freedom for them. Dazzled by the South Vietnamese wealth that was uncovered during two previous raids on the private sector, the communist leaders in Hanoi hastily ordered the Interior Ministry to work with international racketeers to organize human cargoes to be freighted out in exchange for gold and hard currencies.
Hanoi's trade in human misery reserved its privileged exit permits for ethnic Chinese.[2] Affluent Vietnamese were required to pay much higher prices for access to government-guaranteed safe passages to freedom. Project ‘freedom for sale’ was born out of greed and during a period wherein various Southeast Asian governments such as Malaysia and Thailand pronounced a new policy that would admit all asylum-seekers on humanitarian grounds; one of the factors that induced the new compassionate policy was international public outcry over the pirates' brutal attacks on the helpless boat people.
The years of 1978 and 1979 saw, along with the endless 'illegal' exodus, Hanoi’s involvement in shipping out human cargoes of ethnic Chinese and affluent Vietnamese in a tightly controlled but poorly executed scheme.[3] In June 1979, Singapore’s Foreign Minister Sinnathamby Rajaratnam accused Vietnamese communists of having ‘picked on’ Chinese Vietnamese ‘because they know that almost all ASEAN countries have delicate problems with their Chinese minorities. The massive unloading of Chinese refugees onto these countries can only exacerbate racial sensitivities and, if the flow is sustained long enough, lead to racial warfare which could tear these societies apart quicker and far more effectively than any invading Vietnamese army. In no time ASEAN prosperity, stability and cohesion would vanish into thin air and conditions of life would soon be on par with those now prevailing in Indochina.’
Hanoi's Interior Ministry was actively involved in organizing human cargoes to be freighted out in 1978 and 1979. Its plain clothed officers retained the services of civilian agents as intermediaries to recruit Chinese passengers and wealthy Vietnamese for Hanoi’s ‘freedom for sale’ project. Ethnic Vietnamese were charged higher exit fees (as high as 50% more) than the fares paid by Chinese voyagers. Hanoi-sponsored departures took place in many locations including Long Thành, ñà N¤ng, Häi Phòng, Råch Giá, Trà Vinh and Vïnh Long. When the CPV’s ‘freedom for sale’ project was in full operation, the regime began to clam down hard on non-official or so-called ‘illegal escapes’ in order to secure its profitable monopoly in the refugee trade.[4]
Before Hanoi began to collaborate with overseas Chinese racketeers to ‘traffic in human misery’ in mid-1978, almost all boat people who arrived safely at any port could request assistance and a temporary shelter pending resettlement with little resistance from the local communities.[5] In fact, many neighboring villagers opened their arms and heart to assist Vietnamese asylum-seekers with compassion. However, all this had changed as soon as Hanoi organized the shipments of ethnic Chinese on huge ships in exchange for gold and hard currencies. The ethnic-Chinese or ship people factor began to emerge in mid-1978 and magnified the complexity of the Vietnamese boat people crisis.
As a consequence of Hanoi’s sanctioned ship people phenomenon, the neighboring communities and governments became antagonistic and subsequently treated all arriving boat people with serious hostility. Refugees from Socialist Vietnam, whose composition included about a quarter of ethnic Chinese,[6]were no longer offered assistance and direction by the local people, who historically resented the Chinese presence in their countries. And worse, there were many instances, especially in Malaysia, in which the boat people were stoned and beaten by the local villagers. The number of Vietnamese escapes, however, did not cease but continued to rise despite the high risks of death at sea, of rape and pillage by pirates, and the maltreatment administered by neighboring states. In the New Year message for 1979, Singapore’s Prime Minister Lee Kuan Yew appealed to leaders around the globe to ‘register their outrage’ at Hanoi’s trade in human misery:
‘The latest exodus of “boat people” and “ship people” is the result of acts of cold calculation, measured in gold, and long after the heat of battle has cooled. What is ominous is that unless world leaders and leader-writers register their outrage at this cynical disposal of unwanted citizens, many more victims will be sent off on packed boats or ships.’
※ Source: The Boat People: Imprints on History ۩ Lloyd Duong Ͼ 2000
___________
[1] UPI report. Quoted in Barry Wain’s ‘The Refused: The Agony of the Indochina Refugees,’ Simon and Schuster, New York, 1981, at p.231.
[2] This priority was set partly due to the on-going conflict between Hanoi and Beijing at that time. Hanoi was undoubtedly skeptical about a potential fifth column, but greed was the real cause that gave rise to project 'freedom for sale.'
[3]There was a serious lack of coordination in the implementation of Hanoi’s ‘freedom for sale’ project at the local level. Almost all boats were required to carry more than the officially endorsed number of passengers; and many organized departures were intercepted by different regional security offices, whose cadres quickly took advantage of the lawless situation and robed the passengers of their valuables.
[4] According to Foreign Minister NguyÍn CÖ Thåch's remark to the visiting U.S. House of Representatives mission headed by Benjamin S. Rosenthal in early August 1979, Hanoi successfully prosecuted 4,000 cases of illegal escapes during the first 7 months of 1979 (at the peak of Hanoi's export of human cargoes). This assertion translates into tens of thousands of prisoners, who were caught during their failed attempts (most unofficial secret escapes could rarely involve more than a few dozen asylum-seekers).
[5]Before Hanoi’s ‘traffic in human misery’in mid-1978, Malaysia and Thailand occasionally turned refugee boats away but also allowed landing for those boat people, whose crafts were unseaworthy; and it is a reality that the majority of refugee boats from Socialist Vietnam were unseaworthy. The temporary first-asylum policy was greatly appreciated by the boat people in light of the fact that in the 1970s, no country in Southeast Asia was a signatory to the 1951 U.N. Convention Relating to the Status of Refugees or the 1967 Protocol Relating to the Status of Refugees. (The Philippines ratified these documents in July 1981, and consequently her treatment of Vietnamese Asylees in the late 1980s was slightly better than that of neighboring states.)
[6] Bruce B. Dunning, Vietnamese in America: The Adaptation of the 1975-1979 Arrivals, in Refugees As Immigrants, Edi. by David W. Haines, Rowman & Littlefield Publishers, Inc., New Jersey 1989, at p.60. Furthermore, most Sino-Vietnamese or ship people left in larger crafts and old foreign-registered ships operated by overseas Chinese racketeers under contract with Hanoi between mid-1978 and late 1979.
Kiện hàng người khổng lồ đầu tiên của Hà Nội được sắp xếp đưa ra biển vào mùa Thu
năm 1978.[30] Thương nhân Singapore tên Tay Kheng Hong, 51 tuổi, là một trong vài
nhân vật chủ yếu cộng tác với Hà Nội trong cuộc buôn dân lần đó cũng như trong một
vài đợt sau này. Sau ngày Sài Gòn thất thủ, Tay Kheng Hong bị kẹt lại ở Việt Nam và chỉ
được công an cấp giấy phép cho trở về quê quán vào tháng 4-1978, có lẽ với nhiệm vụ
chuẩn bị cho kế hoạch buôn dân của Hà Nội. Vào tháng 6 năm đó, Tay Kheng Hong bắt
đầu làm việc với cộng tác viên tên Tăng Tạ Sơn vốn còn đang ở thành phố Hồ Chí Minh
(tên mới của Sài Gòn) và công an Bộ Nội Vụ để tổ chức kiện hàng người đầu tiên bao
gồm đa số Hoa kiều cùng dân Việt giàu có.
Vào ngày 24-8-1978, chiếc tàu cũ tên Southern Cross được bao thuê từ Singapore để đi
Bangkok chuyên chở một kiện hàng muối. Sau khi rời khỏi hải phận Singapore, tàu
Southern Cross chuyển hướng về thành phố Hồ Chí Minh và đã được chính quyền cộng
sản tại đây đón tiếp nồng hậu. Thay vì nhận một kiện hàng muối, tàu Southern Cross
thâu thập 1.250 hành khách; và để được phép ra đi, mỗi hàng-vận nhân phải trả từ 6
đến 8 lượng vàng cho Hà Nội và từ 1 đến 2 lượng vàng cho nhóm tổ chức.[31] Tàu
buôn người Southern Cross sau đó rời Việt Nam với lá cờ cỏ sao vàng treo lủng lẳng
phía trước mũi và được ca nô phi tiêu của hải quan hướng dẫn ra hải phận quốc tế.
Trước khi ra biển, thuyền trưởng Southern Cross đã đánh điện kêu gọi được giúp đỡ bởi
vì tàu vừa mới vớt được hàng trăm thuyền nhân ngoài hải phận quốc tế. Kuala Lumpur
nghi ngờ thiện chí của lời khẩn cầu này cho nên cấm tàu Southern Cross vào hải cảng
Mã Lai. Singapore cũng phản ứng tương tự cho nên cuối cùng tàu Southern Cross phải
bỏ kiện hàng người xuống hoang đảo Pengibu của Nam Dương vào ngày 21-9-1978.
Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đã can thiệp và vận động với Jakarta để cho các hàng-
vận nhân này được tạm trú tại vùng đảo Bintan phía Nam Singapore trong khi chờ đợi
cơ hội định cư.
Sự thành công của tàu Southern Cross khiến giới lãnh đạo Hà Nội hồ hởi và tiếp tục làm
việc với Tay Kheng Hong để tổ chức thêm một đợt buôn người khác vài tuần sau đó.
Vào ngày 15-10-1978, tàu Golden Hill vốn đã phục vụ trên 30 năm được tậu với giá
125.000 Mỹ-kim ở Singapore để đưa về Hồng Kông phá bỏ hầu lấy sắt phế thải. Tàu
Golden Hill sau đó được đổi tên thành Hai Hong và vừa rời Singapore lại chuyển hướng
về Vũng Tàu để đón một kiện hàng khoảng 1.200 người. Lần này gian thương Tay
Kheng Hong đã bị đảng Cộng Sản Việt Nam lường gạt; tàu Hai Hong bị bắt buộc phải
nhận thêm 1.300 hàng-vận nhân miễn phí. Tay Kheng Hong không có cách chọn lựa
nào khác hơn là cay đắng chấp thuận yêu cầu tối hậu của Hà Nội bởi vì nếu không thì
tàu Hai Hong khó có thể rời khỏi hải phận Việt Nam, và mối lợi đầu cơ của hắn sẽ tiêu
tan.
Vào ngày 24-10-1978, chiếc tàu phế thải Hai Hong chở một kiện hàng người bao gồm
2.449 hàng-vận nhân kể cả gia đình của Tăng Tạ Sơn, cộng tác viên đắc lực của Tay
Kheng Hong tại thành phố Hồ Chí Minh. Bão Rita vốn đang tàn phá biển Nam Hải lúc đó
đã khiến tàu Hai Hong phải đổi hướng đi Hồng Kông để tiến về Nam Dương. Jakarta e
ngại một kiện hàng người khổng lồ khác của Hà Nội sẽ bị trút xuống lãnh địa Nam
Dương cho nên ra lệnh cho tàu Hai Hong phải rời hải phận quốc gia. Tàu Hai Hong trực
chỉ Mã Lai nhưng vẫn không được phép đổ người. Sau đó thủy thủ đoàn dự định rời hải
cảng Klang để đi Singapore nhưng tình trạng củ kỹ bệ rạc khiến tàu không rời khỏi hải
phận Mã Lai nổi.
Trong suốt giai đoạn này, kết quả điều tra tàu Southern Cross, Hai Hong và một số tàu
khác của các chính phủ quan tâm từ Kuala Lumpur, Jakarta đến Canberra, Washington
cho biết đảng Cộng Sản Việt Nam đang tổ chức buôn lậu lương dân để kiếm vàng và
quý kim; và kế hoạch buôn người tàn nhẫn này đe dọa đẩy toàn chương trình cứu trợ
và định cư thuyền nhân vào tình trạng hiểm nghèo. Trong quá khứ, thuyền nhân là
những người tị nạn đi tìm tự do trên những chiếc ghe nhỏ và họ đã được nhân dân và
chính quyền láng diềng đón tiếp, giúp đỡ cũng như cho tạm trú trong khi chờ đợi được
đi định cư. Trong chiến dịch buôn người của Hà Nội trên các chiếc tàu khổng lồ như
Southern Cross và Hai Hong, vấn đề tư cách tị nạn bắt đầu được bàn luận và phân tích
kỷ lưỡng hơn bởi các nhân vật chịu trách nhiệm về chính sách quốc gia, kể cả nhân viên
Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc. Làm sao mà các hàng-vận nhân có thể được xem là dân
tị nạn chính thống khi họ rời Việt Nam một cách đường đường chính chính với sự giúp
đỡ và che chở của chính quyền Hà Nội? Tiêu chuẩn 'bị đàn áp' (persecuted) vốn là tiêu
chuẩn duy nhất để được cấp quy chế tị nạn theo công pháp quốc tế khó mà có thể áp
dụng cho nhóm hàng-vận nhân từng được công an Bộ Nội Vụ tiếp đón, bảo vệ và đưa
lên các chiếc tàu khổng lồ như Southern Cross và Hai Hong để ra đi một cách an toàn.
Chính phủ Úc lên tiếng là các chuyến buôn người của Hà Nội trên những chiếc tàu sắt to
lớn phải thất bại bởi vì nếu không thì khó có thể ngăn chận bàn tay mại dân bất nhân
của đảng Cộng Sản Việt Nam.[32] Bộ Trưởng Di Trú và Nhân Chủng Michael MacKellar
tuyên bố: 'Chúng ta hiện có nhiều dấu hiệu đầu tiên là những cá nhân không có lương
tâm đang gắng sức kiếm lời từ tình trạng tị nạn Ðông Dương hiện nay.. Úc đã đóng vai
trò quan trọng trong việc thâu nhận nhiều ngàn dân tị nạn chân thật, nhưng tôi muốn
báo trước rõ ràng là chúng tôi sẽ không chấp nhận các vụ liên quan đến âm mưu đen
tối nhằm trốn tránh khó khăn.' [33] Nam Dương, Mã Lai và các quốc gia Ðông Nam Á
khác đồng chia xẻ quan điểm của Úc về kế hoạch buôn dân của Hà Nội.
Trong các ngày đầu của vấn nạn Hai Hong, Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc dự định phân
loại hàng-vận nhân trên chiếc tàu phế thải này là dân nhập biên bất hợp pháp. Tuy
nhiên khi sức khỏe của các nạn nhân này xuống dốc trầm trọng vì điều kiện sinh sống
bất lợi trên con tàu rỉ sét, lòng nhân đạo và sự xúc động nhất thời đã thay thế lý trí và
khiến Cao Ủy Tị Nạn LHQ phải ra thông báo công nhận hàng-vận nhân trên tàu Hai
Hong là dân tị nạn.
Vấn nạn Hai Hong chấm dứt vào tháng 11-1978 nhưng kế hoạch buôn dân của Hà Nội
vẫn tiếp tục bởi vì đảng Cộng Sản Việt Nam không thể bỏ qua một mối lợi khổng lồ thâu
thập được từ khổ cảnh thuyền nhân, đặc biệt là khi cộng đồng quốc tế chưa có phản
ứng hiệu quả. Ða số các kiện hàng người của Hà Nội chứa khoảng vài trăm lương dân
trở lại, nhưng cũng có khoảng nửa chục kiện hàng chứa hàng ngàn người được công an
Bộ Nội Vụ phê chuẩn cho ra khơi trên những chiếc tàu rỉ sét và đã làm chấn động các
chính quyền lân bang. Vào tháng 12-1978, tàu Huey Fong cập cảng Hồng Kông với một
kiện hàng gồm 3.318 người.[34] Ba ngày sau, tàu Tung An chở 2.318 hàng-vận nhân
đến Phi Luật Tân.[35] Hai tháng sau đó, Hồng Kông phải đối đầu với 2.651 hành khách
của Hà Nội đi trên tàu Skyluck vốn trước đó đã bỏ 600 người tại vùng đảo Palawan của
Phi Luật Tân.[36] Vào ngày 26-5-1979, tàu Sen On cũng được biết đến dưới danh hiệu
Kina Maru rồi Seng Cheong đã ủi vào đảo Lantau của Hồng Kông với 1.433 hàng-vận
nhân.
Sự liên kết giữa đảng Cộng Sản Việt Nam và bè lũ gian thương quốc tế để buôn lậu
lương dân chỉ chấm dứt khi cộng đồng thế giới cực lực phản đối kế hoạch buôn người
tàn nhẫn này, và đám thương cẩu ở nước ngoài bị chính quyền địa phương đe dọa bắt
phải chấm dứt công việc hợp tác mại dân với Hà Nội hoặc bị giam cầm và truy tố hình
sự cũng như chế tài. Hsu Wen-hsin, thuyền trưởng của tàu Huey Fong, 6 phụ tá của hắn
và 4 thương gia liên hệ đã bị Hồng Kông đưa ra tòa về tội buôn lậu sau khi tàu được
cho cập bến vào ngày 19-1-1979;[37]Hsu và các phụ tá cũng như một thương nhân đã
bị kết án hơn 50 năm tù sau đó. Ðối với nhóm tổ chức tàu Skyluck, chính quyền Hồng
Kông truy tố Thuyền trưởng Hsiao Hung-ping và 4 phụ tá về tội gian mưu vào tháng 2-
1979. Thủy thủ đoàn của tàu Sen On cũng phải chịu một số phận tương tự; 4 người
trong ban tổ chức đã bị kết án về tội giúp đỡ ngoại dân nhập cư trái phép. Tại Phi Luật
Tân, chủ tàu Tung An đã bị phạt về tội vi phạm luật di trú. Trong khi đó, Mã Lai dùng
luật An Ninh Quốc Nội năm 1960 để bắt giữ mà không cần phải truy tố Serigar, thuyền
trưởng tàu Hai Hong, và đầu đàn nhóm tổ chức là Tay Kheng Hong và Lee Sam.
Singapore bỏ tù Allan Ross và Chong Chai Kok bởi vì vai trò của họ trong vụ tàu
Southern Cross và Hai Hong. Chính quyền Singapore cũng hủy bỏ giấp phép hành nghề
của Thuyền trưởng Sven Olof vì Olof đã tích cực nhúng tay vào vụ tàu Southern Cross.
Các quốc gia quan tâm đã nhanh chóng chia xẻ tin tức tình báo liên quan đến bè lủ gian
thương có liên hệ với Hà Nội để tiêu diệt dự tính buôn người trong trứng nước.[38] Tất
cả các chủ tàu cũng như thương cẩu trù định làm ăn với đảng Cộng Sản Việt Nam
thường xuyên được cơ quan an ninh địa phương thăm hỏi cũng như khuyến cáo về hậu
quả nghiêm trọng của vấn đề. Singapore đã đập tan một mạng lưới quốc tế chuẩn bị
làm ăn với Hà Nội bao gồm 4 thương nhân địa phương, 2 công dân Ðài Loan và một
thương nhân Nam Dương gốc Hoa; nhóm người này dự định dùng tàu Tonan Maru để
thâu nhận một kiện hàng người với 'sự đồng lõa của giới cầm quyền Việt Nam'
('complicity of Vietnamese authorities').
Một dự tính buôn người khác xảy ra vào tháng 2-1979 liên quan đến tàu Lucky Dragon
bị phá hỏng bởi vì Hồng Kông đã kịp thời phân phối tin tình báo cho nhiều chính quyền
lân bang một cách hiệu quả. Báo South China Morning Post từng tường thuật lời của
John Slimming, Giám Ðốc Nha Thông Tin Hồng Kông: 'Có nhiều lý do để nghi là chiếc
tàu này có thể đang chuẩn bị vào hải phận Việt Nam để thâu nhận hành khách trả cước
phí.'[39]
Vụ tàu Sea View chứa đựng nhiều tình tiết lý thú hơn bởi vì khi Hồng Kông - lúc đó còn
là thuộc địa Anh - nhận được tin tình báo cho hay là tàu này đang thả neo dừng lại cách
sông Sài Gòn khoảng 16 hải lý vào tháng 6-1979, Luân Ðôn lập tức triệu Lê Kỳ Giai, đại
diện sứ quán Hà Nội, lên Bộ Ngoại Giao để phản đối hành động buôn người tàn nhẫn
này. Giai phủ nhận vai trò của đảng Cộng Sản Việt Nam trong vấn đề mại dân, nhưng
lời lên án chính thức này của chính quyền Anh đã có hiệu quả ngay lập tức. Vào ngày
13-7-1979, tàu Sea View phải rời hải phận Việt Nam mà không nhận được kiện hàng
người của Hà Nội.
Nhờ vào sự hợp tác nhanh chóng và hiệu quả của các chính quyền quan tâm cho nên
đảng Cộng Sản Việt Nam đã thất bại trong âm mưu tầm lợi lâu dài trên sự tủi nhục của
nhân dân. Song song với nỗ lực tích cực truy tố cũng như chế tài bè lũ gian thương bốc
vác các kiện hàng người của đảng Cộng Sản Việt Nam, cộng đồng thế giới đã thành
công trong việc sử dụng áp lực ngoại giao để ngăn chận kế hoạch buôn lậu lương dân
của Hà Nội.
※ Source: Thuyền Nhân: Ấn Tích Lịch Sử ۩ Lloyd Duong Ͼ 2000
Phụ Chú:
30 Tin tình báo cung cấp hình của một nhân vật bí mật gọi là ông Lý ('Mr. Leé) được Hà
Nội sử dụng để liên lạc với đám thương cẩu qu ốc tế nhằm tổ chức các kiện hàng ngườị
Ông Lý nói được tiếng Việt, tiếng Quan Thoại, Phúc Kiến và một ít tiếng Quảng Ðông.
31 Một lượng vàng cân nặng khoảng 1.21 ounces. Vào giai đoạn 1979 và 1980, giá vàng
vọt từ $275 Mỹ-kim/ounce lên đến $850 Mỹ-kim/ouncẹ
32 Tại Úc, một nhóm hổn tạp gồm có phe tả, phe bảo thủ cực hữu và thành phần kỳ thị
chủng tộc đã chống lại việc định cư thuyền nhân. Họ miệt thị dân tị nạn Việt Nam là
phần tử lười biếng và tổ chức họp báo để phản đối chính sách nhân đạo của chính phụ
Nhưng chỉ một niên kỷ sau đó, chính những thuyền nhân này đã tạo được nhiều tiếng
vang hiển vinh cũng như ảnh hưởng mạnh mẽ chánh trường Úc. Ghe tị nạn đầu tiên cập
bến Úc là chiếc KG 4435 do anh Lâm Bình, 25 tuổi, điều khiển rời Kiên Giang với 4 thanh
niên khác.
33 'We now have the first indications that unscrupulous people are attempting to
profiteer in the present Indochinese refugee situation.. Australia has played a major part
in accepting many thousands of genuine refugees, but I give strong warning that we
shall not accept cases involving subterfugé
34 Cảnh sát Hồng Kông tìm được 3.273 lượng vàng trị giá HK $6,5 triệu trên tàu Huey
Fong. Ðảng CSVN đã nhận tiền mãi lộ trị giá ít nhất từ 4 đến 5 lần số lượng vàng này
hay khoảng 12.000 đến 15.000 lượng vàng trước khi cho phép tàu Huey Fong rời hải
cảng Việt Nam.
35 Theo lời khai của một nhân chứng Việt Nam trước tòa Phi Luật Tân thì ít nhất là 240
người đã mất mạng trong khi chen lấn nhau lên tàu Tung An vào tháng 11-1978.
36 Sau khi rời Việt Nam vào ngày 24-1-1979, tàu Skyluck đã chuyển vàng sang tàu
United Faith ngoài hải phận quốc tế trước khi nhập cảng Hồng Kông vào ngày 7-2-1979.
Số lượng vàng này đã được tàu United Faith âm thầm chuyển vào thị trường buôn lậu
của Hồng Kông.
37 Chính quyền Hồng Kông tu chính Luật Thương Hải (the Merchant Shipping Bill), Luật
Di Trú (the Immigration Bill) và một số luật khác để tăng hình phạt tù (lên đến 4 năm)
và tài chế (từ $40.000 lên đến $1 triệu) để đối đầu với thành phần thương cẩu cộng tác
với Hà Nội để chuyên chở các kiện hàng ngườị Bọn buôn người được Hồng Kông đánh
giá nguy hiểm không kém đám buôn lậu thuốc phiện.
38 Vào tháng 2-1979, Hồng Kông tổ chức nhóm đặc nhiệm về tàu tị nạn Refugee Ship
Unit hoạt động bí mật dưới sự chủ huy của Tim Frawley để theo dõi hành vi của công an
Bộ Nội Vụ Việt Nam và đám thương cẩu Hoa kiều ngoại quốc nhằm ngăn chận các kiện
hàng người của Hà Nộị
39 'There are reasons to suspect that this ship may be planning a rendezvous in
Vietnamese waters to pick up fare-paying passengers.' South China Morning Post, 2
March 1979.
Hanoi’s first major venture in exporting the ‘ship people’occurred in the fall of 1978.[1] A 51-year-old Singaporean businessman named Tay Kheng Hong was among the key players in Hanoi’s grand scheme. He was trapped in Socialist Vietnam after 1975 and was not allowed to leave for Singapore until April 1978, perhaps for the purposes of preparing logistics for the subsequent traffic of Asylees. In June, Tay began to work with his counterpart, 54-year-old Son Ta Tang who was still in Ho Chi Minh City, to arrange for a shipment of selected Chinese from Socialist Vietnam.
An old ship, the Southern Cross, was retained to sail from Singapore on August 24, 1978 supposedly to Bangkok to pick up a cargo of salt. The freighter quickly changed course and headed directly to Ho Chi Minh City port, where it was warmly welcomed by the communist authorities. Instead of a cargo of salt, the Southern Cross collected 1,250 passengers, who paid between 6 to 8 taels of gold to Hanoi for their exit permit and 1 to 2 taels to the crew for their voyage to freedom. (A tael of gold is approximately 1.21 ounces and was worth about U.S.$350 in August 1978, and its price jumped almost three times a year later).[2] The Southern Cross left Socialist Vietnam with Hanoi’s red flag hung atop and under the guidance of an official pilot boat.
Before embarking for the open sea, the freighter sent out a cable for help because it just 'picked up'hundreds of Vietnamese refugees in international waters. Malaysia was suspicious and did not allow the ship to enter its port. Similarly, Singapore refused to grant the Southern Cross permission to unload its human cargo. Eventually, on September 21, 1978, the Southern Cross dumped its passengers on Pengibu Island, an uninhabited isle in Indonesian waters. The UNHCR intervened and pressured Jakarta to provide temporary asylum for the voyagers while it worked to process and resettle them at a remote island known as Bintan south of Singapore.
The Southern Cross success led Hanoi’s officials and Tay Kheng Hong to begin work on another joint-venture just a few weeks later. On October 15, 1978, the 30-year-old decrepit Golden Hill, bought for U.S. $125,000 and renamed Hai Hong, was commissioned to leave Singapore for Hong Kong purposely to be scrapped thereafter. As in the case of the Southern Cross, the Hai Hongheaded directly to Vietnam’s Cape VÛng Tàu where it expected to collect 1,200 passengers. However, Tay was cheated by Hanoi this time; and the Hai Hong was forced to pick up 1,300 additional voyagers free of charge. Tay had no choice but to accept the CPV’s ultimatum because otherwise his freighter would be grounded, and his investment would vanish into thin air.
On October 24, 1978, the Hai Hong collected 2,449 passengers including Tay’s crony, Son Ta Tang, and left Vietnam for Hong Kong. Typhoon Ritaravaging the South China Sea at the time diverted the ship’s course toward Indonesia. Jakarta suspected the Hai Hong carried a massive human cargo and thus ordered the vessel to leave its territorial waters. The freighter set sail for Malaysia but could not get permission to disembark. The rusting vessel then tried to depart Port Klang for Singapore but could barely leave Malaysian waters.
In the mean time, intense investigations into the Southern Cross,the Hai Hong and similar ventures conducted by concerned governments from Kuala Lumpur, Jakarta to Canberra, Washington revealed that the communist government of Vietnam was trafficking in its own citizens in exchange for gold; and Hanoi’s ‘traffic in human misery’ threatened to jeopardize the entire boat people protection and resettlement program. Previously, most refugees who reached freedom on small boats were offered shelter pending resettlement in countries of final asylum. In the cases involving huge ships such as the Southern Cross and the Hai Hong, the refugee claims of those passengers on board were questioned by many policy makers including those with the UNHCR. How could those ship people be qualified as refugees in order to receive protection and care at the expense of the international community when they left Socialist Vietnam by open arrangement and with Hanoi’s assistance and protection? A claim of fear of persecution as defined by the Convention Refugee definition could hardly be asserted by those passengers, who were ferried by communist officials to board big boats and ships such as the Southern Cross and the Hai Hong.
Australia demanded that the Hai Hong venture and similar undertakings had to fail; otherwise, there was no way to stop Hanoi’s active role in the trafficking of its citizens.[3]Michael MacKellar, Minister for Immigration and Ethnic Affairs, stated: ‘We now have the first indications that unscrupulous people are attempting to profiteer in the present Indochinese refugee situation… Australia has played a major part in accepting many thousands of genuine refugees, but I give strong warning that we shall not accept cases involving subterfuge.’ Indonesia, Malaysia and other Southeast Asian countries shared Australian view on the issue.
Initially, the UNHCR was considering the possibility of classifying the Hai Hongpassengers as illegal immigrants. However, as the passengers’ health declined due to poor living conditions on the rusty freighter, humanitarianism and emotionalism replaced rationalism and forced the UNHCR to declare publicly that it ‘considered them (the Hai Hong passengers) refugees.’
The Hai Hongsaga ended in November 1978, but Hanoi’s ‘freedom for sale’ project did not cease with this incident because the Vietnamese Communist Party refused to give up lucrative dividends from its minimal investment in the 'traffic in human misery,'[4] especially when the international community was still paralyzed by the initial shock. In subsequent months, Hanoi sent out many human cargoes often consisted of a few hundred fare-paying passengers or less; however, there were also several huge cargoes that contained thousands of voyagers on foreign-registered rusty ships, and these massive charter departures eventually sparked severe international condemnation.
In December 1978, the Huey Fong showed up in Hong Kong harbor with 3,318 refugees.[5] Three days later, the Tung An ferried a human cargo consisted of 2,318 Asylees to the Philippines. Two months later, Hong Kong saw another delivery of 2,651 ship people on the Skyluck, which earlier dropped 600 Asylees on Palawan Island in Filipino waters. On May 26, 1979, the Sen On, also known first as the Kina Maru and then the Seng Cheong, ran aground on Lantau Island of Hong Kong with 1,433 ship people.
Hanoi’s collaboration with international syndicates to ‘traffic in human misery’ did not end until the international community voiced its strong objections and the overseas racketeers were threatened by their governments to disengage therefrom or else face severe criminal and financial punishments. Hsu Wen-hsin, captain of the Huey Fong, his 6 officers and 4 business associates were indicted on human trafficking charges by the Hong Kong government as the vessel was allowed entry on January 19, 1979.[6] Hsu, his six officers and one of the four businessmen were eventually convicted and received jail sentences totaling more than 60 years. The Hong Kong government also dealt with the Skyluck operators in the same fashion by putting Captain Hsiao Hung-ping and his 4 officers on trial for conspiracy charges in February 1979. The same consequence faced the crew of the 387-ton Sen On; four individuals were convicted on charges of assisting illegal immigrants to enter the colony. In the Philippines, the Tung Anowner was fined for violations of immigration law. Malaysia detained Serigar, captain of the Hai Hong, and the voyage’s organizers Tay Kheng Hong and Lee Sam by using the Internal Security Act of 1960 that permitted incarceration without trial. Singapore imprisoned Allan Ross and Chong Chai Kok for their part in the Southern Cross and the Hai Hong ventures. The Singaporean government also cancelled the employment permit of Captain Sven Olof for his active involvement in the Southern Cross voyage.
Concerned nations promptly shared intelligence regarding potential refugee racketeers in order to stop their operations during the embryonic stage.[7] Ship owners and representatives, who were planning to ‘traffic in human misery,’would be called in and warned about the dire consequences of such ventures. Singapore successfully crushed an international ring involving 4 local Chinese, 2 Taiwanese and a Sino-Indonesian, who were contemplating to pick up human cargoes from Socialist Vietnam with the ‘complicity of Vietnamese authorities’on the 3,500-ton Tonan Maru.
Another plot reportedly using the Lucky Dragon in February 1979 was aborted because Hong Kong quickly and effectively disseminated intelligence. The daily South China Morning Post quoted Hong Kong’s Director of Information Services, John Slimming, as saying: ‘There are reasons to suspect that this ship may be planning a rendezvous in Vietnamese waters to pick up fare-paying passengers.’[8]
The case involved the Sea View was more interesting because, as soon as Hong Kong received information that the Sea Viewwas anchoring 16 miles up the main channel of the Saigon river in June 1979, Hanoi’s chargé d’affaires Lê Kÿ Giai in London was summoned by the Foreign Office to hear the British government’s objection to the CPV's role in exporting Vietnamese citizens. Giai disputed the allegation but the British objection worked. On July 13, 1979, the Sea View was forced to sail from Socialist Vietnam with an emptied cargo.
As a result of these collective efforts by various governments, the Vietnamese communist regime was effectively prevented from profiting from the boat people tragedy. While severely penalizing all racketeers who picked up Hanoi's human cargoes, the international community successfully applied diplomatic pressures on the communist regime to suspend the export of fare-paying passengers.
※ Source: The Boat People: Imprints on History ۩ Lloyd Duong Ͼ 2000
___________
[1]Intelligence sources provide photographs of a shadowy character named ‘Mr. Lee’ who was used by Hanoi as one of the principal intermediaries to deal directly with foreign organizers in its ‘freedom for sale’ project. Lee speaks Vietnamese, Mandarine, Fukien fluently and a bit of Cantonese.
[2] Gold price tripled from U.S. $275 per ounce to U.S. $850 per ounce in 1979 and 1980.
[3] In Australia, an odd coalition of leftists, political conservatives and racist activists was formed to denounce the arrival of boat people, who were unfairly branded as unwanted lazy elements. Ironically only a decade later, these very same boat people, many of whom were intellectuals and affluent Vietnamese, quickly established themselves and became prominent in the Australian business and political arenas. The first Vietnamese refugee boat that reached Australia directly is the Kiên Giang registered as KG 4435 operated by 25-year-old Lâm Bình and carried four additional young men.
[4] A phrase coined by Hong Kong's Chief Secretary Sir Jack Cater ('those who traffic in human misery').
[5] Hong Kong police searched and found 3,273 taels of gold worth more than HK$6.5 million on the Huey Fong. It is estimated that the Hanoi regime received at least 4 to 5 times this amount of gold before allowing the Huey Fong to depart Vietnamese waters.
[6] The Hong Kong government amended the Merchant Shipping Bill, the Immigration Bill and other bills in 1979 to increase incarceration time (up to 4 years) and financial penalty (from $40,000 to $1 million) to deal with ship masters and owners, whose vessels carried illegal immigrants or excess non-shipwreck passengers, or whose vessels were abandoned in Hong Kong waters ‘without reasonable excuse.’ Refugee racketeers were considered to be in the same category as drug traffickers.
[7] Hong Kong’s secret Refugee Ship Unit under Tim Frawley’s command was active in gathering and disseminating intelligence concerning Hanoi’s collaboration with overseas Chinese racketeers. The RSU was set up in February 1979 with the sole mission of stopping organized refugee shipments from Socialist Vietnam.
[8] South China Morning Post, March 2, 1979.
Chiến lược buôn lậu lương dân của Hà Nội đã gây ra nhiều ảnh hưởng tác hại cho
chương trình cứu trợ và định cư thuyền nhân bắt đầu với sự phản đối của các chính
quyền quan tâm rồi dự định 'bắn khi trông thấy' (shoot on sight) của Mã Lai đối với dân
tị nạn Việt Nam vào tháng 6-1979.[40] Vào những năm đầu của làn sóng thuyền nhân,
như đã trình bày trong các phần trước, chính quyền Kuala Lumpur đối xử tương đối
nhân đạo với người Việt vượt biên tìm tự do. Dân Mã Lai cũng tận tình giúp đỡ thuyền
nhân bằng cách cung cấp thực phẩm và nơi tạm trú trong khi chờ đợi quyết định của cơ
quan hữu trách địa phương.
Trước khi Hà Nội tiến hành kế hoạch mại dân vào giữa năm 1978, chính quyền Mã Lai ít
khi xua đuổi thuyền nhân; và ngay cả khi ghe tị nạn còn tốt được hướng dẫn đến quốc
gia khác, các người trên ghe thường được tiếp tế thêm gạo, nước ngọt cũng như nhu
yếu liệu và dầu máy cần thiết. Vào tháng 3-1978, Bộ Trưởng Nội Vụ Tan Sri Ghazali
tường trình trước Quốc Hội rằng chính phủ Mã Lai tiếp tục đón nhận thuyền nhân vì lý
do nhân đạo mặc dầu không công nhận tư cách tị nạn của họ. Theo ông ta thì chỉ có
những người trốn tránh một cuộc chiến đang diễn ra mới có thể được xem là dân tị
nạn;[41] và CHXHCN Việt Nam lúc đó không còn chiến tranh. Nhờ vào chính sách nhân
đạo của Mã Lai mà hàng chục ngàn thuyền nhân đã được cho phép tạm trú trong khi
chờ đợi cơ hội định cư tại đệ tam quốc gia.
Vào cuối năm 1978 khi trực diện với kế hoạch buôn lậu lương dân của Hà Nội, chính
quyền Kuala Lumpur lập tức thay đổi chính sách vì lo ngại phải đối đầu với một cuộc đổ
bộ của Hoa kiều do đảng Cộng Sản Việt Nam bảo trợ. Kiện hàng người Việt gốc Hoa do
tàu Hai Hong đưa đến hải phận Mã Lai vào tháng 11-1978 đã khiến nhiều lãnh tụ chính
trị lo âu. Tại Quốc Hội, các ý kiến chỉ trích chủ trương nhân đạo của chính quyền - đặc
biệt là từ đảng đối lập Partai Islam - bùng nổ mạnh vì có thêm yếu tố mới. Thay vì lo đối
đầu với số lượng ghe mỏng manh của thuyền nhân Việt Nam cập bờ Mã Lai một cách rời
rạc, giới lãnh đạo quốc gia bắt đầu lo lắng trước cuộc đổ bộ của Hoa kiều trên những
chiếc tàu khổng lồ do Hà Nội và đám gian thương quốc tế tổ chức.
Chính quyền Kuala Lumpur cuối cùng đã đi đến quyết định ngăn cấm tất cả ghe thuyền
từ Việt Nam cập bến và ra lệnh cho lực lượng biên phòng kéo dân tị nạn ra hải phận
quốc tế. Chính sách xua đuổi này đã khiến nhiều thuyền nhân áp dụng phương pháp
đục lủng ghe rồi lội vào bờ với hy vọng đặt chính quyền Mã Lai trong cảnh 'chẳng đặng
đừng' phải chấp nhận cho họ được tạm lưu. Chiến thuật 'nhảy bãi' liều lĩnh của những
thuyền nhân tuyệt vọng đã dẫn đến nhiều cái chết đầy thương tâm của trẻ em, phụ nữ
và quý cụ cao niên yếu sức cũng như thanh niên không biết bơi. Vào các tháng đầu khi
chính sách mới được thi hành, vài ngàn 'dân nhảy bãi' (beach people) đã được cho phép
lưu trú trong khi chờ đợi cơ hội tái định cư. Tuy nhiên trong các tháng sau đó, Kuala
Lumpur đe dọa chấm dứt chương trình tạm lưu dân tị nạn Việt Nam và sẽ tiến hành việc
tống khứ 76.000 thuyền nhân hiện đang trú ngụ trên đất Mã Lai.
Vào ngày 15-1-1979, Thủ Tướng Hussein Onn tuyên bố là Mã Lai chấm dứt chính sách
nhân đạo và lập tức thực hiện chính sách be bờ để ngăn chận làn sóng thuyền nhân.
Vào tháng 2 năm đó, ông ta phát biểu: 'Chúng tôi đã thông báo cho Liên Hiệp Quốc và
các quốc gia khác về vấn đề này bởi vì chúng tôi không còn đủ chỗ trong các trại trên
đảo của chúng tôi.. vì thế chúng tôi phải xua đuổi họ đi nơi khác nếu họ muốn cập
bờ.'[42] Giữa tháng 2 và tháng 6-1979, khoảng 50% hay hơn 5.000 dân nhảy bãi Việt
Nam đã bị lính Mã Lai dùng súng ép lên ghe và kéo ra hải phận quốc tế.
Một lực lượng đặc biệt, the VII (Vietnamese Illegal Immigrants), được Kuala Lumpur tổ
chức để tìm cách ngăn cản ghe tị nạn xâm nhập hải phận quốc gia cũng như giải quyết
số thuyền nhân đang còn kẹt tại các trại tạm lưu. Dân đánh cá Mã Lai được yêu cầu sơn
một vòng tròn có chữ P chính giữa trên mui tàu để phân biệt với ghe của thuyền nhân.
Vào ngày 31-3-1979, tàu tuần tiểu Rrenchong kéo ghe tị nạn MH-3012 ra hải phận quốc
tế. Vận tốc nhanh của tàu tuần tiểu đã làm ghe tị nạn lật và dẫn đến cái chết của 115
nạn nhân vô tội. Một bản điều tra của Liên Hiệp Quốc tường trình: 'Ghe Việt Nam ở
trong một tình trạng tệ hại, máy bơm nước bị hư và máy ghe không chạy. Nước ngọt
không có (trên ghe).. một em bé được sinh trên ghe trong lúc đó.. Sĩ quan hải quân (Mã
Lai) từng lên ghe đều biết tất cả các dữ kiện này.'
Trong khoảng thời gian ba tháng từ tháng 3 đến tháng 5-1979, Kuala Lumpur
đã dùng bạo lực để xua đuổi hơn 26.000 thuyền nhân trên 186 ghe.[43] Vào
tháng 6-1979, Bộ Trưởng Nội Vụ Tan Sri Ghazali Shafie tuyên bố rằng khoảng 40.000
thuyền nhân trên 267 ghe tị nạn đã bị Mã Lai tống xuất ra hải phận quốc tế và cho biết
là Kuala Lumpur thành lập 100 điểm kiểm soát trên biển cũng như bổ xung thêm tàu
chiến và biệt phái 2.000 quân vào nổ lực ngăn chặn làn sóng tị nạn Việt nam. May mắn
cho các thuyền nhân bất hạnh bị Mã Lai xua đuổi là Nam Dương vẫn tiếp tục cho ghe
của họ cập bờ, nếu không thì nhân loại phải chứng kiến một cuộc sát nhân tập thể rùng
rợn trên biển.
Dân Mã Lai cũng đã góp phần trong nỗ lực ngăn cản làn sóng thuyền nhân khi Kuala
Lumpur thay đổi chính sách. Ðiển hình là tại Kuala Trengganu vào ngày 22-11-1978,
dân địa phương cực đoan đã đẩy một ghe tị nạn ra khỏi bờ khiến ghe bị lật và gần 200
thuyền nhân trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ em bị chết đuối. Mã Lai không phải chỉ là
quốc gia duy nhất tiến hành chính sách ngăn chận làn sóng tị nạn; Thái Lan, Nam
Dương và Singapore đã dàn lực lượng hải quân để đề phòng tàu chở các kiện hàng
người Hoa của Hà Nội xâm nhập hải phận quốc gia, và dĩ nhiên là ghe tị nạn Việt Nam
cũng bị xua đuổi khi đến gần hải giới của các nước này.
Sự hiện diện của Hoa kiều trên các tàu sắt do Hà Nội bảo trợ bị dư luận tại nhiều quốc
gia Ðông Nam Á lên án, nhưng hiếm nơi nào có tinh thần bài Hoa rõ ràng cũng như
mạnh mẽ bằng ở Nam Dương. Cũng như Mã Lai, chính sách đối xử với thuyền nhân của
Jakarta từ năm 1975 đến 1978 tương đối ôn hòa và bao dung. Dân tị nạn Việt Nam
được phép cập bờ và lưu lại tại các trại tạm trú trong khi chờ đợi cơ hội định cư.
Nhưng khi Hà Nội hợp tác với lũ gian thương quốc tế để thực hiện kế hoạch buôn lậu
lương dân, chủ trương bao dung của Jakarta thay đổi hoàn toàn bởi vì chính quyền Nam
Dương rất nhạy cảm về lá bài Hoa kiều. Lịch sử của quốc gia này từng ghi lại một cuộc
đảo chánh bất thành do Trung cộng khuyến khích vào năm 1965; và hàng chục ngàn
Hoa kiều địa phương đã mất mạng trong cuộc xung đột đẩm máu đó. Trong năm 1978,
phản ứng phẫn nộ của Bắc Kinh đối với chính sách bài thương của Hà Nội vốn ảnh
hưởng nhiều người Việt gốc Hoa đã khiến cho giới lãnh đạo Jakarta trở nên lo lắng;
trong nhãn quan của họ, phản ứng của Trung cộng là một trái bom nổ chậm có thể đưa
đến việc dàn quân can thiệp vào nội bộ các quốc gia lân bang nơi có nhiều Hoa kiều
sinh sống.
Vào tháng 6-1979, chính sách của Nam Dương đối với thuyền nhân Việt Nam bất đầu
cứng rắn hơn. Bộ Trưởng Quốc Phòng Mohammed Jusuf phát biểu: 'Chúng tôi không
cho phép thêm người tị nạn nào đổ bộ lên đất nước chúng tôi.'[44] Chiến dịch Lightning
Bolt được tiến hành nhằm ngăn cản các kiện hàng Hoa kiều của Hà Nội cũng như ghe tị
nạn Việt Nam xâm nhập hải phận quốc gia. Tuy vậy, mặc dầu giới lãnh đạo Jakarta đưa
ra nhiều tuyên bố cứng rắn trên diễn đàn quốc tế, nhưng trong thực tế họ vẫn tiếp tục
bảo bọc thuyền nhân Việt Nam và cho phép ghe tị nạn bị các quốc gia khác xua đuổi
cập bờ; chính nhờ vào chính sách mềm dẻo và nhân đạo này mà hàng chục ngàn người
Việt đã không bị mất mạng sau khi ghe của họ bị tàu hải quân lân bang kéo ra biển.
Vào thời điểm 1975 tại Thái Lan, chính quyền Bangkok quyết định không chấp nhận cho
bất cứ người tị nạn nào nhập biên. Dân tìm tự do đến từ Việt Nam cũng như Cam Bốt
được cơ quan sở tại giúp đỡ sơ sài rồi tống xuất ra khỏi biên thùy nếu không có quốc
gia nào cho họ định cư. Bộ Nội Vụ Thái cho tổ chức Trung Tâm Hành Ðộng cho Người
Mất Ðất Sống (Operations Centre for Displaced Persons) để theo dõi tình hình phát triển
của làn sóng tị nạn Ðông Dương nhằm đưa ra kế hoạch đối phó kịp thời.
Vào tháng 3-1978, Thủ Tướng Kriangsak công bố một chính sách mới đối với dân tị nạn
Ðông Dương. Vì lý do nhân đạo, Bangkok bắt đầu chấp nhận cho những người ra đi tìm
tự do được tạm trú trong khi chờ đợi cơ hội định cư tại đệ tam quốc gia. Nhưng chỉ
trong vòng vài tháng sau đó, khi đối diện với các kiện hàng người của Hà Nội, Bangkok
lập tức đình chỉ chánh sách nhân đạo. Chính quyền Thái Lan lên tiếng hăm dọa là sẽ
đóng cửa các trại tị nạn và tống khứ toàn bộ thuyền nhân đang tạm cư ra khỏi biên
thùy quốc gia.
Ðể châm thêm dầu vào ngọn lửa đang thiêu đốt lòng nhân đạo đối với dân tị nạn, Phó
Tổng Thư Ký Cục An Ninh Quốc Gia Prasong Soonsiri tuyên bố rằng 10% thuyền nhân là
tình báo của Hà Nội mặc dầu không đưa ra được bất cứ bằng chứng cụ thể nào.[45]
Vào tháng 10-1978, Thủ Tướng Kriangsak phát biểu trên báo Bangkok Post: 'Nếu ghe
nào cần sửa chửa thì có thể được phép, nhưng ghe cũng như dân tị nạn phải rời ngay
sau khi việc sửa chửa hoàn tất,'[46] và không ghe tị nạn nào được phép cập bờ.[47]
Lực lượng hải quân Thái bắt đầu hợp tác với lực lượng hải quân Mã Lai để tổ chức các
cuộc hành quân song phương nhằm ngăn chận làn sóng thuyền nhân xâm nhập hải
phận quốc gia.
Phi Luật Tân cũng bắt đầu cứng rắn hơn đối với dân tị nạn khi phải đối đầu với kế hoạch
buôn lậu lương dân của Hà Nội. Thuyền nhân chỉ được phép cập bến nếu có quốc gia
bảo đảm cho họ được định cư. Bộ Trưởng Ngoại Giao Carlos Romulo nhấn mạnh:
'Chúng tôi không muốn (nhận) thêm dân tị nạn. Tình hình mỗi lúc mỗi tệ hại hơn.'[48]
Vào tháng 4-1979, Manila chính thức chấm dứt chính sách nhân đạo đối với thuyền
nhân Việt Nam.
Vào giai đoạn 1975, chính quyền Tân Gia Ba chấp nhận cho 200 dân tị nạn Việt Nam
được định cư; nhưng khi đối đầu với làn sóng thuyền nhân, chính quyền sở tại áp dụng
sách lược bế quan tỏa cảng. Thủ Tướng Lý Quang Diệu tuyên bố một cách lạnh lùng
rằng: 'Con tim của quý vị phải chai đá, nếu không thì quý vị sẽ mất máu đến chết;'[49]
vì vậy cho nên không ghe tị nạn nào có thể vào được hải phận Singapore. Chính sách
mới của Tân Gia Ba không cho phép thuyền nhân cập bờ ngoại trừ họ được tàu ngoại
quốc cứu vớt và được quốc gia thứ ba bảo đảm việc tái định cư cũng như CUTNLHQ
phải tài trợ chi phí sinh hoạt của họ trong thời gian họ cư trú ở Tân Gia Ba. Vào đầu
tháng 10-1979, thêm một điều kiện khó khăn nữa được chính quyền Singapore ban
hành là tổng số dân tị nạn Việt Nam tạm lưu trong quốc gia không thể hơn 1.000 người
và họ phải ra đi định cư trong vòng 90 ngày; nếu thời hạn định cư thuyền nhân bị vi
phạm, các chính quyền đã hứa bảo đảm cho họ sẽ bị chế tài nặng nề.[50] Chính sách
này đã bị Cao Ủy Tị Nạn LHQ cũng như nhiều quốc gia Tây phương phản đối vì từ lâu
công pháp quốc tế công nhận và đề cao trách nhiệm cứu giúp nạn nhân trên biển;[51]
trách nhiệm cao thượng này cũng liên quan đến nguyên tắc bất khả hồi (non-
refoulement) được Công Ước liên quan đến Tư Cách Tị Nạn năm 1951 (1951 UN
Convention relating to the Status of Refugees) xác định:
'Không quốc gia nào (đã ký kết Công Ước) được trục xuất hay hồi hương dưới mọi hình
thức một người tị nạn về biên cương nơi mà mạng sống hay sự tự do của người đó có
thể bị đe dọa bởi vì lý do nhân chủng, tôn giáo, sắc tộc, tư cách thành viên trong một tổ
chức xã hội hay quan điểm chính trị.' (Ðiều 33)[52]
Chính sách của Tân Gia Ba vì vậy vô hình chung đã trừng phạt những thuyền trưởng có
lương tâm sẵn sàng cứu trợ thuyền nhân đang đối chọi với tử thần một cách tuyệt vọng
trên biển. Thương thuyền ngoại quốc bắt đầu tránh né ghe tị nạn bởi vì thủy thủ đoàn
lo ngại phải chọn lựa giữa việc cứu người cấp bách và cái giá đắt đỏ mà họ sẽ trả cho
hành động trắc ẩn này; theo tin tức của giới hàng hải tại Singapore vào giữa năm 1979,
một số thương nhân đã ra lệnh cho thuyền trưởng của họ không được trợ giúp thuyền
nhân Việt Nam bởi vì hải trình có thể bị đình trệ và cái giá phải trả cho việc nhập biên
dân tị nạn trở nên quá tốn kém.[53] Lực lượng hải quân của Tân Gia Ba cũng được lệnh
phải ngăn chận không cho ghe tị nạn vào hải phận quốc gia bằng mọi cách. Vào tháng
2-1979, ghe Việt Nam số SB-001 đã bị tàu hải quân Singapore chận lại và xua đuổi về
hướng Mã Lai; hai thuyền nhân đã mất mạng trong vụ này khi chiếc ghe tị nạn mong
manh va chạm tàu sắt của hải quân.
Vào ngày 17-2-1979, Bộ Trưởng Ngoại Giao Sinnathamby Rajaratnam minh bạch hóa
chính sách của Tân Gia Ba đối với thảm trạng thuyền nhân như sau:
'Làn sóng thuyền nhân đặt thế giới phi cộng sản, kể cả các quốc gia ASEAN, vào một
tình trạng luân lý khó xử. Chúng ta có thể phản ứng vì lý do nhân đạo và luân lý để
chấp nhận và định cư những người tuyệt vọng này. Nhưng làm như vậy thì chúng ta
không những chỉ khuyến khích những kẻ có trách nhiệm (đảng Cộng Sản Việt Nam) xua
đuổi thêm nhiều dân tị nạn ra đi mà còn vô hình chung chứng minh là chính sách vô
nhân đạo lại đem đến phần lời hậu hỉ. Vả lại không chỉ vậy, các quốc gia có chính sách
nhân đạo còn phải bao thầu hàng loạt vấn nạn chính trị, xã hội và kinh tế khó kham nổi
tất nhiên xuất hiện bởi vì sự thâu nhận bất thình lình hàng trăm ngàn ngoại nhân.'[54]
Sự hợp tác giữa đảng Cộng Sản Việt Nam và mạng lưới Hoa kiều bất lương ở nước ngoài
để 'buôn lậu khổ cảnh con người' khiến các chính quyền lân bang bắt đầu đối xử với
thuyền nhân bằng thái độ thù nghịch. Thái độ cởi mở trong chính sách của các quốc gia
lân cận vốn từng chấp nhận cho dân tị Việt Nam tạm cư đã biến mất và được thay thế
bằng chủ trương cứng rắn hơn và đôi khi rất bất nhân. Thảm trạng của thuyền nhân
trên biển cũng như tại đất liền đã khiến Cao Ủy Tị Nạn LHQ - dưới áp lực của Hoa Kỳ và
các quốc gia ASEAN - tổ chức Cuộc Họp Tham Khảo giữa các Chính Quyền Quan Tâm
đến Dân Tị Nạn và Người Mất Ðất Sống ở Ðông Nam Á (Consultative Meeting with
Interested Governments on Refugees and Displaced Persons in Southeast Asia) vào hai
ngày 11 và 12-12-1978 tại Geneva, Thụy Sĩ. Ba mươi tám quốc gia đã cử phái đoàn đại
diện đến tham dự, nhưng Cuộc Họp Tham Khảo này không đem đến được một kết quả
cụ thể nào.
Ðại diện CUTNLHQ Dale DeHaan phân tích vấn đề là: 'không thể có giải pháp nhân đạo
hay lâu dài nếu các chính quyền không chịu thi hành chính sách cho (dân tị nạn) tạm
lưu dựa theo các nguyên tắc nhân đạo được quốc tế công nhận.. (và) sự tạm cư tùy
thuộc vào những hứa hẹn tái định cư (dân tị nạn) tại đệ tam quốc gia cũng như khả
năng tránh được vấn nạn thặng dư (residual problems) trong vùng.' [55] Bất kể nhận
định này, Cuộc Họp Tham Khảo không đưa ra được một phương pháp nào khả dĩ có thể
giải quyết cơn khủng hoảng tị nạn Ðông Dương. Trong khi đại diện của Hà Nội là Võ
Văn Sung tiếp tục khăn khăn phủ nhận vai trò tích cực của đảng Cộng Sản Việt Nam
trong chiến dịch buôn lậu lương dân, một vài đệ tam quốc gia đóng góp thêm được $12
triệu Mỹ-kim cho các hoạt động nhân đạo của CUTNLHQ và hứa nhận thêm 5.000 dân tị
nạn Ðông Dương; theo phái đoàn Mã Lai, các đóng góp ít ỏi này chỉ là 'một giọt nước
nhỏ vào đại dương' (a drop in the ocean).
Ðối diện với sự thất bại của cơ chế Cao Ủy Tị Nạn trong Cuộc Họp Tham Khảo vào tháng
12-1978 cũng như chứng kiến thảm trạng thuyền nhân ngày một tồi tệ hơn, Liên Hiệp
Quốc quyết định tổ chức một hội nghị quốc tế vào tháng 7-1979 với hy vọng có thể giải
quyết cơn khủng hoảng tị nạn Ðông Dương. Tổng Thư Ký LHQ Kurt Waldheim khẩn cầu
tất cả các quốc gia, ngoại trừ Lào và Cam Bốt,[56] cử phái đoàn bộ trưởng đến tham dự
hội nghị quốc tế này với văn phong nghiêm trọng như sau:
'Mặc dầu nhiều nơi khác trên thế giới hiện cũng đang đối đầu với vấn đề tị nạn khó
khăn, tầm vóc nguy cấp của cuộc khủng hoảng tại Ðông Nam Á đòi hỏi sự lưu tâm đặc
biệt ngay lập tức.'[57]
※ Source: Thuyền Nhân: Ấn Tích Lịch Sử ۩ Lloyd Duong Ͼ 2000
Phụ Chú:
40 Vào ngày 16-6-1979, báo chí tường thuật là Phó Thủ Tướng Mahathir bin Mohamad
của Mã Lai đã tuyên bố rằng chính phủ có thể ban hành luật 'bắn khi trông thấý ('shoot-
on-sight') để ngăn chận làn sóng thuyền nhân Việt Nam.
41 Bất cứ ai biết sơ về công pháp quốc tế cũng có thể thấy định nghĩa về 'người tị nạn'
của Bộ Trưởng Nội Vụ Tan Sri Ghazali rất nông cạn. Xin tham khảo phần Ðịnh Nghĩa
Phức Tạp về Tư Cách Tị Nạn trong Chương IV.
42 'We have already given notice to the United Nations and other countries on this as
we do not have any more space on our island camps.. so we will chase them away if
they try to land.' 'Government to step up sea patrols to prevent refugee influx,' FBIS
APA 25, 5 February 1979, at p.2 (from Hong Kong, Agence France-Presse, 5 February
1979).
43 Tháng 3-979: 5.088 đồng bào trên 29 ghe; Tháng 4-1979: 7.412 đồng bào trên 71
ghe; Tháng 5-1979: 13.462 đồng bào trên 86 ghẹ
44 'We are not going to allow any more refugee to land in our countrý
45 Bangkok có mưu đồ nhập luôn của những Việt kiều ở Thái lâu năm trong bài toán
thuyền nhân để tống xuất họ ra khỏi nước bởi vì Thái Lan luôn luôn nghi ngờ lòng trung
thành của ho
46 'If any boat needs repairs this will be permitted, but it will have to leave with the
refugees as soon as repairs are completed..'
47 Cuối cùng Thái Lan đưa ra chính sách giới hạn số lượng thuyền nhân được ra đi định
cư và gây nhiều khó khăn cho họ nhằm làm nản lòng dân vượt biên.
48 'We don't want anymore refugees. The situation is getting worse every timé Minster
opposed to more Vietnamese refugees. FBIS APA 069, 9 April 1979, at p.P1 (from Hong
Kong, Agence France-Presse, 6 April 1979).
49 'You’ve got to grow callouses on your heart or you just bleed to death.'
50 Song song, bất cứ thương thuyền nào cứu vớt thuyền nhân mà chưa tìm được quốc
gia nhận họ đều bị đòi hỏi phải đóng tiền thế chân cho mỗi đầu người tị nạn là $10.000
đô-la Singapore (khoảng $4.665 Mỹ kim lúc đó) trước khi được phép nhập cảng.
51 The 1910 Brussels International Assistance and Salvage at Sea Convention, the 1958
Convention on the High Seas, and the 1960 London International Convention for the
Safety of Life at Seạ See also J. Pagash, 'The Dilemma of the Sea Refugee: Rescue
Without Refuge,' 18 Harvard Int'l L.J. 577.
52 'No Contracting State shall expel or return (refouler) a refugee in any manner
whatsoever to the frontiers of territories where his life or freedom would be threatened
on account of his race, religion, nationality, membership of a particular social group or
political opinion.' (Art. 33)
53 Tàu bè của Nhật thường từ chối không chịu giúp thuyền nhân đang gặp nguy hiểm
trên biển bởi vì Tokyo không chịu cho đồng bào tị nạn định cư trong các năm đầu của
làn sóng vượt biên. Các quốc gia tạm lưu khác thường đòi hỏi những thương thuyền đã
vớt dân tị nạn phải tìm được chỗ định cư cho họ trước khi chịu nhận họ vào trại tị nạn.
54 'The flow of boat people poses the non-communist world, including the ASEAN
countries, with a moral dilemmạ We could respond on humanitarian and moral grounds
by accepting and resettling these desperate peoplẹ But by doing so we would not only
be encouraging those responsible to force even more refugees to flee but also
unwittingly demonstrate that a policy of inhumanity does pay dividends. Not only that,
but those countries which give way to their humanitarian instincts would sađle
themselves with unmanageable political, social and economic problems that the suđen
absorption of hundreds of thousands of alien peoples must inevitably bring in its waké
55 'There can be no humane or durable solutions unless governments grant at least
temporary asylum in accordance with internationally accepted humanitarian principles..
(and) temporary asylum depended on commitments for resettlement in third countries
and the avoidance of residual problems in the areá 'Consultative Meeting with Interested
Governments on Refugees and Displaced Persons in Southeast Asiá Summing-Up by
UNHCR (UNHCR Deputy High Commissioner Dale DeHaan), Paragraph 5(i).
56 Chính phủ Lào và Cam Bốt đã không được Liên Hiệp Quốc mời tham dự hội nghị này
mặc dầu vấn đề tị nạn Ðông Dương liên quan trực tiếp đến hai quốc gia nàỵ Lý do đơn
giản là Liên Hiệp Quốc không muốn làm phật lòng hai thế lực đàng sau là Bắc Kinh (ủng
hộ Khờ Me Ðỏ) và Hà Nội (ủng hộ Lào cộng) bởi vì hội nghị này chắc chắn sẽ thất bại
nếu không có sự hiện diện của Trung Quốc và CHXHCN Việt Nam. Sự kiện này cho thấy
vai trò con chốt của chính phủ Lào và Cam Bốt trên bàn cờ tị nạn Ðông Dương mặc dầu
đề tài thảo luận liên quan trực tiếp đến quốc sự của cả hai nước.
57 'Although there are very many serious refugee problems in other parts of the world,
the alarming proportions of the crisis in Southeast Asia require immediate and special
attention.'
The Vietnamese Communist government’s active role in trafficking its own citizens began to jeopardize the entire boat people protection and resettlement program commencing with various official protests and then Malaysia’s proposed ‘shoot on sight’ legislation against all arriving refugees on June 16, 1979.[1] During the initial months of the exodus, as aforementioned, Malaysia started out with a more humane policy by providing temporary shelters for the boat people. Local villagers also helped the arriving refugees with foods and accommodation. Before Hanoi’s ‘traffic in human misery’ in mid-1978, Kuala Lumpur rarely turned untrustworthy refugee boats away; and those seaworthy crafts, which had to leave for certain reasons, were re-supplied with food, fuel and fresh water. In March 1978, Home Affairs Minister Tan Sri Ghazali told Parliament that his government continued to admit the boat people on humanitarian and compassionate grounds although it did not consider them ‘refugees.’ A refugee was anyone who, in accordance with his definition, fled from an ongoing war; and Socialist Vietnam was no longer a theatre of war. Thanks to Malaysia's liberal policy that allowed refugee crafts to disembark, many boat people were granted temporary asylum pending eventual resettlement.
In late 1978, however, Kuala Lumpur changed its position due to the fear of a Hanoi-sponsored Chinese invasion. The arrival of the Hai Hong’s huge human cargo of Chinese ship people in Malaysian territories in November 1978 caused grave concerns in various political circles; and criticisms of the government’s humanitarian policy grew, especially from the opposition party Partai Islam. In Parliament, the politicians’ express concern was focused on the arrivals of Chinese ship people on huge vessels organized by Hanoi and its overseas racketeers, instead of the sporadic arrival of Vietnamese refugees on small boats.
The Malaysian authorities eventually decided to prevent all fragile boats to reach shore and, at times, ordered the navy to pull ‘seaworthy’ crafts outwards to international waters. The embargo led many asylum-seekers to engage in the very dangerous tactic of scuttling their own boats a few hundred feet from shore in order to sink the crafts and force everyone to swim to the nearby beach. This desperate act caused the drowning of numerous weak women, young children and men, who did not know how to swim or had become too exhausted to stay afloat. Initially, those beach people who successfully sneaked in pass the patrol vessels and camped on the beach after sabotaging their crafts were allowed temporary asylum. Later on, however, Kuala Lumpur threatened that it would no longer shelter the boat people and would take necessary measures to forcibly evict the existing 76,000 asylum-seekers. On January 15, 1979, Prime Minister Hussein Onn declared that Malaysia effectively closed its doors to all arriving refugees. In the subsequent month, he stated: ‘We have already given notice to the United Nations and other countries on this as we do not have any more space on our island camps… so we will chase them away if they try to land.’[2] Between February and June 1979, more than 5,000 Asylees or 50% of the so-called beach people held at gunpoint were put on vessels and towed out.
A task force, the VII (Vietnamese Illegal Immigrants), was incepted to find ways to prevent the boat people’s arrivals and to resettle those already in refugee camps. Malaysian fishermen were advised to paint a large encircled P on their vessels’ roof to distinguish their crafts from incoming refugee boats. On March 31, 1979, Malaysian patrol ship Rrenchong towed a refugee boat, the MH-3012, out to international waters at high speed and caused it to roll over. More than 115 people died as a result of this inhumane conduct. A UNHCR report later found: ‘The Vietnamese boat (the MH-3012) was in very bad condition, water pump was broken and engine could not be started. No water was available… a baby was born on board in the meantime… All the facts were known to the (Malaysian) naval officers who had been on board.’
In a period of three months from March to May 1979, Kuala Lumpur reportedly expelled by force more than 26,000 arriving refugees on 186 boats.[3] In June 1979, Home Minister Tan Sri Ghazali Shafie stated that approximately 40,000 refugees on 267 boats were towed out of Malaysian waters, and Kuala Lumpur had established 100 observation stations and committed more vessels as well as 2,000 soldiers to its campaign to push back the refugee tide. Fortunately, most ejected boats were allowed to disembark in Indonesia; otherwise, the world would likely witness a new holocaust at sea.
The local Malays did their part in the eviction of Vietnamese refugees; for instance, in Kuala Trengganu on November 22, 1978, furious villagers pushed a refugee craft outward and caused it to capsize and the eventual drowning of nearly 200 boat people. Malaysia was not alone in stopping and expelling all arriving Asylees. Thailand, Indonesia and Singapore also maintained naval blockades to prevent the arrivals of Chinese ship people and, in the process, also Vietnamese boat people.
The anti-Chinese sentiment was more obvious in Indonesia. Between 1975 and 1978, Jakarta’s policy toward Vietnamese refugees was relatively humane. The boat people were offered temporary shelter pending overseas - but not local - resettlement. In response to Hanoi’s export of Vietnamese Chinese, however, this position was reversed quickly because Jakarta was extremely sensitive with the ethnic Chinese equation. Indonesian history included a Beijing-encouraged communist coup in 1965 that eventually led to the mass killings of tens of thousands of local Chinese. In 1978, Beijing’s provocative objection to Hanoi’s treatment of ethnic Chinese caused even more concerns for Jakarta, which saw Beijing’s policy as a time bomb for extraterritorial intervention.
The Indonesian position in June 1979 was therefore quite clear; Defence Minister Mohammed Jusuf declared: ‘We are not going to allow any more refugee to land in our country.’ Operation Lightning Bolt was implemented to Sblock the boat people from entering Indonesian waters. Despite the new hard-line policy, however, Jakarta still permitted the disembarkation of refugee boats that were forcibly expelled by neighboring states. Thanks to this compassionate and pragmatic approach, an 'Asian holocaust' at sea was effectively avoided.
In Thailand, Bangkok initially decided not to accept any refugee in 1975. Political Asylees from Cambodia and Vietnam would be given minimal assistance and then deported. The Operations Centre for Displaced Persons was created in the Ministry of the Interior to monitor the refugee developments in order to formulate strategies aimed at preventing the Asylees' arrivals.
In March 1978, Prime Minister Kriangsak pronounced a new policy that would admit all Indochinese Asylees on humanitarian grounds. But just a few months later, in light of Hanoi’s ‘freedom for sale’ scheme, the new policy was suspended. Bangkok began to threaten to close its refugee camps and deport all boat people from its soil.
To add more fuel to the fire that was burning off international compassion for Vietnamese refugees, Deputy Secretary General of the National Security Council Prasong Soonsiri incited fears by suggesting, without a shred of evidence, that at least 10% of the boat people were Hanoi’s spies.[4] In November 1978, Prime Minister Kriangsak confirmed his government’s hard line policy with a reporter of the Bangkok Post: ‘If any boat needs repairs this will be permitted, but it will have to leave with the refugees as soon as repairs are completed,’ and no boat people would be allowed to land.[5] The navy was ordered to conduct joint operations with its Malaysian counterpart to keep Hanoi's human cargoes and Vietnamese refugee boats at bay.
Philippines also changed its past humanitarian policy and adopted a tough position against the arriving Asylees, who would be granted entry only with guaranteed resettlement places. Foreign Minister Carlos Romulo stated categorically: ‘We don’t want anymore refugees. The situation is getting worse every time.’[6] In April 1979, Manila effectively eliminated its humanitarian policy.
Singapore previously granted residency to 200 Asylees from Vietnam in 1975 but subsequently undertook a firm anti-refugee position once faced with the exodus. Prime Minister Lee Kuan Yew coldly expressed: ‘You’ve got to grow callouses on your heart or you just bleed to death.’ Therefore, no refugee was allowed to enter Singapore unless he (she) was rescued by a foreign ship whose country guaranteed his (her) quick resettlement and the UNHCR would agree to pay his (her) living expenses. In early October 1979, Singapore prescribed new conditions requiring that the number of boat people in Singapore at any one time could not exceed 1,000 and the refugees had to be resettled within 90 days, failure of which would subject the guaranteeing countries to a system of penalties.[7] This policy drew protests from the UNHCR and severe criticisms from other governments.
International law has long recognized the duty to help victims in distress at sea,[8]and this duty is closely related to the non-refoulementprinciple prescribed by the 1951 United Nations Convention relating to the Status of Refugees:
‘No Contracting State shall expel or return (refouler) a refugee in any manner whatsoever to the frontiers of territories where his life or freedom would be threatened on account of his race, religion, nationality, membership of a particular social group or political opinion.’ (Art. 33)
Singapore’s anti-refugee policy therefore penalized ship captains, who had to weight between the time-honored code of chivalry at sea (to assist boaters in distress) and the huge cost of such heroic acts. Unfortunately, the huge cost factor often caused marine masters to ignore calls for help from the refugees at sea; according to reliable shipping sources in Singapore in mid-1979, certain owners reportedly instructed their captains to avoid assisting desperate Asylees in danger at sea.[9] Singaporean Navy also ruthlessly blocked all refugee crafts from reaching its shore. In February 1979, the interception of the Vietnamese boat SB-001 by two Singaporean patrol vessels caused the death of two refugees; eventually, the SB-001 was forced to leave for Malaysia.
On February 17, 1979, Singapore’s Foreign Minister Sinnathamby Rajaratnam articulated his country’s position on the boat people tragedy in a speech as follows:
‘The flow of boat people poses the non-communist world, including the ASEAN countries, with a moral dilemma. We could respond on humanitarian and moral grounds by accepting and resettling these desperate people. But by doing so we would not only be encouraging those responsible to force even more refugees to flee but also unwittingly demonstrate that a policy of inhumanity does pay dividends. Not only that, but those countries which give way to their humanitarian instincts would saddle themselves with unmanageable political, social and economic problems that the sudden absorption of hundreds of thousands of alien peoples must inevitably bring in its wake.’
Due to Hanoi’s collaboration with international racketeers to ‘traffic in human misery,’ the boat people were treated with unfounded animosity. Neighboring states that previously offered temporary shelters began to treat Vietnamese asylum-seekers with indifference and, at times, deadly hostility. The brutalities faced by the boat people at sea and on land led the UNHCR - under severe pressures from the U.S. and ASEAN nations at the time - to call for the ‘Consultative Meeting with Interested Governments on Refugees and Displaced Persons in Southeast Asia’ on December 11 and 12, 1978. Representatives from 38 nations attended this ‘Consultative Meeting’ in Geneva but failed to find a durable solution to the refugee crisis.
The UNHCR Deputy High Commissioner Dale DeHaan concluded: 'there can be no humane or durable solutions unless governments grant at least temporary asylum in accordance with internationally accepted humanitarian principles.. (and) temporary asylum depended on commitments for resettlement in third countries and the avoidance of residual problems in the area.'[10] Despite this insight, no substantial advancement was made to resolve the Indochinese refugee crisis. While Hanoi's representative Võ Væn Sung continued to deny the Vietnamese Communist Party's role in the trafficking of human cargoes, third countries offered another $12 million to the UNHCR humanitarian operations and only 5,000 additional resettlement places or 'a drop in the ocean' according to the Malaysian delegation.
Thereafter, as the boat people tragedy deteriorated further with the implementation of hard-line policies by various Southeast Asian states, the United Nations called the first international conference on Indochinese refugees in July 1979 in an attempt to resolve this growing humanitarian crisis. UN Secretary General Kurt Waldheim urged all nations, except Laos and Cambodia,[11]to attend the 2-day ministerial meeting in Geneva by expressing in his invitation that: ‘Although there are very many serious refugee problems in other parts of the world, the alarming proportions of the crisis in Southeast Asia require immediate and special attention.’
※ Source: The Boat People: Imprints on History ۩ Lloyd Duong Ͼ 2000
___________
[1] Malaysia’s Deputy Prime Minister Dr. Mahathir bin Mohamad reportedly suggested that ‘shoot-on-sight’legislation would be passed to prevent the boat people’s arrivals.
[2] ‘Government to step up sea patrols to prevent refugee influx,’ FBIS APA 25, February 5, 1979, at p.2 (from Hong Kong, Agence France-Presse, February 2, 1979).
[3] March 1979: 5,088 Asylees on 29 boats; April 1979: 7,412 Asylees on 71 boats; May 1979: 13,462 on 86 boats.
[4]Bangkok deliberately wanted to include its own Thai-born Vietnamese residents, whom it considered a constant threat to national security, in the boat people equation in order to deport them.
[5] Eventually, Thailand developed its own deterrence policy: resettlement opportunities for refugees would be severely restricted to reduce the pull factor.
[6] ‘Minster opposed to more Vietnamese refugees,’ FBIS APA 069, April 9, 1979, at p.P1 (from Hong Kong, Agence France-Presse, April 6, 1979).
[7] Furthermore, any ship carrying rescued boat people without guaranteed resettlement places had to post a bond of Singaporean $10,000 or U.S. $4,665 for each refugee before its cargo could unloaded in Singapore.
[8] The 1910 Brussels International Assistance and Salvage at Sea Convention, the 1958 Convention on the High Seas, and the 1960 London International Convention for the Safety of Life at Sea. See also J. Pagash, ‘The Dilemma of the Sea Refugee: Rescue Without Refuge,’ 18 Harvard Int’l L.J. 577.
[9] Japanese ships regularly ignored the boat people’s call for help because Tokyo refused to offer resettlement for rescued Vietnamese refugees; most first-asylum countries, on the other hand, denied permission to disembark for ships carrying refugees if their resettlement could not be guaranteed.
[10] ‘Consultative Meeting with Interested Governments on Refugees and Displaced Persons in Southeast Asia’ Summing-Up by UNHCR, Paragraph 5(i).
[11] Both Laos and Cambodia were excluded in order not to offend their respective backer, Beijing and Hanoi, even though the 'Indochinese refugees' crisis directly affected the affairs of these two nations.
Du trình thảm khốc của thuyền nhân Việt Nam đã gợi lại nhiều kinh nghiệm cai đắng
của dân tị nạn Do Thái trong thời Ðệ Nhị Thế Chiến; và giới truyền thông quốc tế bắt
đầu tường thuật về hải trình kinh hoàng của dân tị nạn vốn đã trở thành nạn nhân của
hỏa lò sát nhân Châu Á (Asian holocaust) trong nhãn quan của các phân tích viên ngoại
quốc. Nhiều tổ chức nhân đạo trên thế giới lên tiếng kêu gọi các lãnh tụ chính trị phải
lập tức hành động để cứu vớt và định cư thuyền nhân nhằm tránh tạo điều kiện cho
một hỏa lò sát nhân tái diễn.
Trong khi Hồng Y Cooke của New York đại diện 100 triệu tín hữu Kitô và DoThái yêu cầu
Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc giúp đỡ dân tị nạn Việt Nam, Chủ Tịch Commission on the
Holocaust là Elie Wiesel bày tỏ sự bất bình khi '.. thấy người (tị nạn) lênh đênh trên biển
mà không quốc gia nào chịu chào đón họ cập bờ. Chúng tôi cảm thấy kinh khiếp vì quy
lượng (người được nhận định cư) gạt bỏ phụ nữ và trẻ em khi biết rằng chính sách này
có thể trở thành bản án tử hình.'[58] Nhiều lãnh tụ chính trị Hoa Kỳ như Thượng Nghị Sĩ
Dole, Boschwiz, Hayakawa, và Dân Biểu McCloskey đã lên tiếng bày tỏ sự quan tâm của
họ đối với thái độ lãnh đạm của Hoa Thịnh Ðốn về thảm trạng thuyền nhân. Dân Biểu
Stephen Solarz đã kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ thâu nhận thêm nhiều thuyền nhân như
sau:
'Vấn đề có lẽ hoàn mỹ hơn nếu chính quyền (XHCN) Việt Nam không phải là chính
quyền của Việt Nam và có loại chính sách tạo điều kiện cho những người này ở lại,
nhưng sự việc là như vậy, và chúng ta phải giải quyết các hệ quả hiện hữu. Vào niên kỷ
1930 có người có thể lên tiếng là Ðức Quốc Xã nên thay đổi chính sách để thích hợp với
nhu cầu của người Do Thái ở Ðức để họ khỏi phải ra đi, nhưng tình hình thực tế cho
thấy Ðức Quốc Xã đã không thay đổi chính sách, và câu hỏi chánh đáng duy nhất (là)..
chúng ta có nên mở cửa chào đón những người cố gắng trốn đi trong tuyệt vọng (hay
không).'[59]
Dưới sức ép của dư luận, tòa Bạch Ốc dần dần nhận thức được nhu cầu đóng vai trò
tiên phong trong nỗ lực giải quyết cơn khủng hoảng tị nạn Ðông Dương. Hoa Thịnh Ðốn
ý thức được là uy danh lãnh đạo có cái giá của nó: ngoại trừ chính quyền Hoa Kỳ đóng
vai trò tích cực và năng động trong chương trình cứu trợ và định cư thuyền nhân, Hoa
Thịnh Ðốn không thể sử dụng ảnh hưởng quốc gia để kêu gọi sự cộng tác của các chính
quyền khác nhằm giải quyết cơn khủng hoảng tị nạn Ðông Dương và những vấn nạn
nhân đạo khác trong tương lai. Chính quyền Carter bắt đầu lưu ý đến chính sách trừng
phạt Hà Nội về tệ nạn vi phạm nhân quyền[60] và tích cực vận động sự hợp tác của
cộng đồng thế giới để giải quyết thảm kịch tị nạn tại Ðông Nam Á.
Trong mùa Xuân 1979, vì lo sợ chủ trương phản ứng tiêu cực sẽ tạo điều kiện cho một
hoả lò sát nhân khác xảy ra trên biển, Hoa Kỳ chính thức hóa vai trò lãnh đạo của Hoa
Thịnh Ðốn trong nỗ lực cứu trợ thuyền nhân Việt Nam. Trong lời cảnh giác Quốc Hội
Hoa Kỳ về nguy cơ 'một núi lửa sắp bùng nổ' ('the volcano is about to blow') ở Ðông
Nam Á, Chủ Tịch Ủy Ban Cứu Trợ Quốc Tế Leo Cherne đã trình bày nhu cầu cần thiết về
vai trò lãnh đạo của Hoa Thịnh Ðốn trong nỗ lực giải quyết cơn khủng hoảng nhân đạo
này như sau:
'Bất kể sự cố gắng của chúng ta và một vài quốc gia khác - đáng để là Pháp, Úc, và Gia
Nã Ðại - phản ứng của thế giới thiếu sót một cách đáng buồn. Cần thiết ở đây, và là chủ
điểm của vấn đề.. rõ ràng là sự lãnh đạo. Tổng Thống và Quốc Hội cần phải xác định
quyết tâm của quốc gia nhằm giải quyết cơn khủng hoảng nhân sinh hiện tại và kêu gọi
cả thế giới làm việc với chúng ta.. Chúng tôi chắc chắn sẽ vận động hết sức cho một
phản ứng có ý nghĩa của Hoa Kỳ đối với cơn khủng hoảng này. Quốc gia này đã từng
làm trong quá khứ, và không có lý do gì mà chúng ta không thể hành động ngay bây
giờ.'[61]
Nhằm gầy dựng sự ủng hộ của thế giới cho nỗ lực cứu trợ thuyền nhân Việt Nam, Tổng
Thống Carter tuyên bố kế hoạch gia tăng gấp đôi số lượng tị nạn Ðông Dương được Hoa
Kỳ thâu nhận lên 14.000 người mỗi tháng. Ðể đáp lại lời yêu cầu của T.T. Carter tại Hội
Nghị Thượng Ðỉnh Kinh Tế ở Tokyo, Nhật Bản đồng ý chịu trách nhiệm tài trợ toàn bộ
ngân sách của CUTNLHQ trong tài khoảng 1979 cũng như chi phí điều hành các trại tị
nạn Ðông Nam Á.
Chính sách bất nhân của Hà Nội đối với thuyền nhân khiến tổ chức Bảy Cường Quốc Kỹ
Nghệ gồm Anh, Ðức, Hoa Kỳ, Gia Nã Ðại, Nhật, Pháp và Ý đã phải ra thông cáo đặc
biệt[62] trong Hội Nghị Thượng Ðỉnh tại Tokyo vào tháng 6-1979 nhằm xác định cơn
khủng hoảng tị nạn Ðông Dương là 'một vấn nạn nhân đạo mang tầm vóc lịch sử' (a
humanitarian problem of historical proportions) và hứa là sẽ gia tăng sự đóng góp tùy
theo khả năng quốc gia cho quỹ cứu trợ và định cư dân tị nạn. Tại Hội Nghị Ngoại
Trưởng ASEAN vào tháng 2-1979, trong khi Ngoại Trưởng Carlos Romulo của Phi Luật
Tân so sánh chính sách trục xuất nhân dân của đảng Cộng Sản Việt Nam giống như
chính sách cô lập hóa và hoả thiêu dân Do Thái của Ðức Quốc Xã,[63] Ngoại Trưởng
Sinnathamby Rajaratnam của Tân Gia Ba phát biểu rằng kế hoạch buôn người bất nhân
của Hà Nội là 'phương pháp của một thằng nghèo sử dụng biển cả thay vì tù ga (để giết
người).'[64]
Vào ngày 20-7-1979, sáu mươi lăm quốc gia kể cả CHXHCN Việt Nam tham dự một hội
nghị quốc tế vĩ đại tại Geneva dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc để tìm kiếm một giải
pháp cho cơn khủng hoảng tị nạn Ðông Dương. Trong nhãn quan của Bộ Trưởng Di Trú
và Nhân Chủng Úc Ðại Lợi là Michael MacKellar, các chính quyền 'một lần nữa được yêu
cầu thẩm định một trong các thảm kịch bất nhân nhưng không cần thiết trong lịch trình
đau thương của nhân loại.'[65] Các đại diện quốc gia tại hội nghị quốc tế này đã xác
định tầm quan trọng của khổ cảnh tị nạn Ðông Dương như sau:
'Rất nhiều vấn đề bị đặt trong tình trạng hiểm nghèo: các quy tắc luật pháp cũng như
phương hướng hành dụng, tương lai của vô số thường dân và giá trị cao thượng của
nhân mạng, sự quả quyết và khả năng phản ứng đồng loạt cũng như cương quyết của
cộng đồng quốc tế..'[66]
Kết quả thất bại của Hội Nghị Evian vào năm 1933 vì các quốc gia không giải quyết
được bài toán tái định cư dân tị nạn Do Thái - vốn đã bị Hitler giết hại sau đó - vẫn còn
ám ảnh trí nhớ của nhiều thành viên tham dự hội nghị đầu tiên về tị nạn Ðông Dương
vào năm 1979. Cộng đồng thế giới hy vọng có thể sử dụng cơ hội gặp gỡ này để kêu
gọi thêm sự giúp đỡ tái định cư thuyền nhân và tạo áp lực để Hà Nội chấm dứt kế
hoạch buôn dân cũng như tôn trọng nhân quyền, kể cả quyền tự do di cư vốn được
Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền bảo đảm.
Một điểm son bên lề hội nghị này là buổi biểu tình khổng lồ của cộng đồng người Việt tị
nạn tại hải ngoại đã làm cho phái đoàn Hà Nội do Thứ Trưởng Ngoại Giao Phan Hiền trở
nên lúng túng. Một tấm biển khổng lồ bằng tiếng Pháp đã được trương lên để minh định
'TOUT LE PEUPLE VIETNAMIEN CONTRE LA CLIQUE DE HANOI' (Toàn thể nhân dân Việt Nam chống lại bè lũ Hà Nội). Phái đoàn cộng sản phải yêu cầu cảnh sát địa phương năn
nỉ những người tị nạn đang biểu tình đừng trưng biểu ngữ đó lên trước hàng trăm ống
kính quốc tế và hăm he là sẽ không tham dự hội nghị này.[67]
Cuộc Họp về Dân Tị Nạn và Người Mất Ðất Sống ở Ðông Nam Á (the Meeting on
Refugees and Displaced Persons in South East Asia) - hội nghị lớn nhất trong lịch sử
nhân loại về vấn đề tị nạn[68] với sự hiện diện của 65 phái đoàn đại diện nhiều quốc gia
cùng quan sát viên của nhiều chính phủ, cơ quan quan tâm song song với các tổ chức
phi chính phủ - lật tẩy chính sách vô nhân đạo của Hà Nội đối với thuyền nhân Việt
Nam. Hội nghị quốc tế này đã thành công tương đối giới hạn trong nỗ lực tạo áp lực
khiến Hà Nội phải đình chỉ kế hoạch buôn lậu lương dân cũng như giảm thiểu các trở
ngại di trú nhằm tạo điều kiện cho công dân Việt Nam được đoàn tụ với gia đình và thân
nhân tại hải ngoại. Trong buổi họp báo sau khi hội nghị kết thúc, Tổng Thư Ký LHQ Kurt
Waldheim tuyên bố:
'Chính quyền CHXHCN Việt Nam đã cho phép tôi thông báo cho quý vị biết là trong một
khoảng thời gian hữu lý họ sẽ cố gắng ngăn chận các cuộc ly hương bất hợp pháp.
Trong khi đó chính quyền Việt Nam sẽ hợp tác với Cao Ủy Tị Nạn LHQ để phát triển
chương trình 7 điểm được trù hoạch nhằm đưa các vụ ly hương vào các đường hướng
an toàn và trật tự.'[69]
Như đã bàn trước đây, Hà Nội luôn luôn phủ nhận vai trò của đảng Cộng Sản Việt Nam
trong kế hoạch xuất cảng các kiện hàng người để cưỡng chiếm tài vật và quý kim. Vài
tháng trước hội nghị quốc tế kỳ I về tị nạn Ðông Dương, chính quyền Hà Nội đã cố gắng
tạo sắc thái trong sạch cho đảng Cộng Sản Việt Nam nhằm xa lánh vụ 'buôn lậu khổ
cảnh con người;' một thí dụ điển hình của nỗ lực tuyệt vọng này liên quan đến tàu hàng
hải Nikitas F của Hy Lạp. Thủy thủ đoàn Nikitas F đã bị truy tố về tội giúp người Việt
vượt biên sau khi tàu đưa 11.400 tấn lúa mì đến cảng Sài Gòn vào ngày 26-5-1979. Họ
bị kết án về tội giấu 69 người Việt dự định ly hương trái phép trên tàu và sau đó bị phạt
trên $10.000 Mỹ kim. Thuyền trưởng Samothrakitis Komniwos đã khai với cơ quan an
ninh Hồng Kông là chính thủy thủ đoàn của ông đã phát hiện ra 69 người trốn trong
phòng hải cụ và nhờ công an Việt Nam giúp đỡ để yêu cầu họ rời khỏi tàu, nhưng trớ
trêu thay là các thủy thủ lại bị truy tố và chế tài ngay sau đó. Thật ra đây chỉ là một cố
gắng tuyệt vọng của Hà Nội nhằm che mắt thế giới bởi vì nếu tàu Nikitas F đến Việt
Nam để buôn người thì không có lý do gì mà chỉ nhận vỏn vẹn có 69 hành khách; và
một điểm khác không kém phần quan trọng là tàu Nikitas F đã được phép rời cảng Sài
Gòn mặc dầu thuyền trưởng và các thủy thủ bị kết tội đã từ chối không chịu trả cho
chính quyền Hà Nội một cắc nào trong khối tiền phạt hơn $10.000 Mỹ kim.
Sau hội nghị quốc tế kỳ I về tị nạn Ðông Dương, để chứng tỏ quyết tâm tôn trọng giao
ước với cộng đồng quốc tế, Hà Nội ra lệnh xử bắn một số dân vượt biên bị bắt lại, trong
đó có cựu quân nhân miền Nam tên Trần Minh Châu bị hành quyết vào ngày 6-8-1979
về tội tổ chức đánh cắp tàu đánh cá quốc doanh để vượt biên. Án lệnh tử hình nặng nề
này chỉ nhằm phô trương hợm hỉnh trò hề che mắt thế giới, và ông Trần Minh Châu
không may mắn đã trở thành một trong nhiều nạn nhân tế thần của đảng Cộng Sản Việt
Nam trong khi các bộ óc đằng sau kế hoạch buôn người vĩ đại lần đầu tiên trong lịch sử
dân tộc vẫn tiếp tục thăng quan tiến chức. Ðể khoe khoang với cộng đồng quốc tế về nỗ
lực 'cố gắng ngăn chận các cuộc ly hương bất hợp pháp,' Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn
Cơ Thạch phóng đại với phái đoàn Hạ Viện Hoa Kỳ do Nghị Sĩ Benjamin Rosenthal dẫn
đầu viếng thăm CHXHCN Việt Nam vào tháng 8-1979 là Hà Nội đã truy tố ít nhất 4.000
vụ vượt biên trái phép (nghĩa là do dân tự ý tổ chức 'đi chui' một cách bí mật) trong
vòng 7 tháng đầu năm 1979 (thời điểm cao độ của chiến dịch buôn dân của đảng
CSVN); tức là theo Nguyễn Cơ Thạch, khoảng vài chục ngàn 'dân đi chui' đã bị cầm tù
nếu chúng ta chỉ khiêm tốn phỏng tính là đa số các vụ vượt biên bí mật do đồng bào tự
tổ chức khó kéo theo quá vài chục người.
Vào khoảng tháng 8-1979, Hà Nội tạm thời đình chỉ kế hoạch buôn dân do đảng Cộng
Sản Việt Nam trực tiếp điều khiển; và số lượng người ra đi theo diện 'bán chính thức'
tiết giảm rõ rệt. Trong số 201.189 thuyền nhân ly hương vào năm 1979, 160.000 người
đi trước hội nghị quốc tế kỳ I về tị nạn Ðông Dương; từ tháng 8 đến tháng 12-1979,
tổng số dân vượt biên thành công giảm 75% xuống còn khoảng 41.000 người. Một nhân
viên đặc trách tị nạn tại Mã Lai đã phát biểu trong năm 1980: 'Hiện tại chúng tôi lại thấy
các cuộc vượt biên bí mật như đã xảy ra trước đây từ năm 1975.' [70] Vào thời điểm
này, ký giả Barry Wain cũng nhận xét rằng: 'Nỗ lực phỏng vấn sâu rộng cho thấy là
các chuyến mới đến là dân vượt biên thật sự. Họ đa số là người Việt đến từ
miền Nam..' [71] Tại Hồng Kông, 98% thuyền nhân đến sau năm 1979 là người Việt,
thay vì Hoa kiều.
Lời kêu gọi trật tự hóa và an toàn hóa sự ra đi của dân tị nạn Việt Nam do Bộ Trưởng
Ngoại Giao Thụy Ðiển Hans Blix đưa ra đã được cộng đồng thế giới hoan nghinh,[72] và
Hà Nội hứa là sẽ thực hiện các điều khoản của 'Thỏa Hiệp Thư' (Memorandum of
Understanding) đã ký kết với CUTNLHQ vào ngày 30-5-1979. Thỏa Hiệp Thư 30-5-1979
kêu gọi sự giúp đỡ của Cao Ủy Tị Nạn LHQ trong việc tiến hành chính sách di dân mới
của Hà Nội được công bố vào ngày 12-1-1979 và hợp thức hóa bởi một nghị quyết của
Bộ Chính Trị vào ngày 14-3-1979. Công dân Việt Nam bắt đầu được phép xin di cư ra
nước ngoài theo diện tầm nghiệp hay đoàn tụ gia đình. Chương Trình Ra Ði Trật Tự
(Orderly Departure Program hay ODP) ra đời với mục tiêu - trên lý thuyết - tạo cơ hội
cho dân tị nạn Việt Nam ly hương an toàn và ngăn chận âm mưu buôn người của đảng
Cộng Sản Việt Nam nhằm tầm lợi lâu dài trên sự tủi nhục của đồng bào.[73]
Mặc dầu trên lý thuyết, Chương Trình Ra Ði Trật Tự đưa ra một số mục tiêu cao cả khả
trọng, nhưng khi chương trình ODP được áp dụng trong thực tế đã tạo ra nhiều khó
khăn nan giải cho thành phần tị nạn thực sự bởi vì chỉ có những người được Hà Nội
chấp thuận mới 'hội đủ tiêu chuẩn' rời khỏi Việt Nam, tức là quyết định cuối cùng về
giấy phép xuất cảnh nằm trong tay đảng Cộng Sản Việt Nam cho nên chính sách tầm lợi
trên sự tủi nhục của nhân dân vẫn tiếp tục đem thêm lợi nhuận về cho đảng.[74] Bộ
Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cơ Thạch từng phát biểu là đa số dân tị nạn 'vốn người ở
miền Nam, đặc biệt ra đi từ thành phố Hồ Chí Minh. Vào năm 1975, chúng tôi (đảng
Cộng Sản Việt Nam) ngăn cấm không cho họ ra đi. Chúng tôi bị phương Tây chỉ trích.
Chúng tôi đã nghĩ lại. Chúng tôi quyết định cho họ quyền tự do ra đi. Bây giờ (phương
Tây) lại nói là chúng tôi xuất cảng dân tị nạn. Vì vậy bây giờ họ phải xin đi. Và chúng tôi
sẽ cho phép họ đi.'[75] Dĩ nhiên là dân tị nạn thật sự không nên nộp đơn xin phép di cư
bởi vì bất cứ ai bộc lộ lý do xin xuất cảnh vì nhu cầu tị nạn cộng sản sẽ bị công an đàn
áp hoặc còng tay đưa thẳng vào trại cải tạo. Song song, các quốc gia đón nhận di dân
Việt Nam dĩ nhiên trước hết phải lưu tâm đến nhu cầu đoàn tụ gia đình của công dân và
thường trú nhân của họ hơn là thành phần khác, kể cả dân tị nạn thật sự.
Một vấn đề pháp lý khác cũng quan trọng không kém đó là tư cách của những
người ra đi theo đường dây ODP: họ là thành phần di cư hay dân tị nạn? Cộng
đồng quốc tế cần lưu ý đến việc bảo vệ dân tị nạn thật sự, nhưng bao nhiêu
người tị nạn thật sự có thể xuất cảnh theo chương trình ODP vốn dần dần
biến dạng thành một chương trình bảo lãnh thân nhân di cư hay xuất cảnh
tầm nghiệp?
Kinh nghiệm thăng trầm của Hoa Kỳ đối với chương trình ODP là một thí dụ điển hình về
các khó khăn cụ thể trong thực tế vì đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn tiếp tục âm mưu tầm
lợi lâu dài trên tiến trình di cư của nhân dân. Trong những ngày đầu của chương trình
Ra Ði Trật Tự, Hà Nội giao cho Hoa Thịnh Ðốn hai danh sách bao gồm khoảng 30.000
người được công an Bộ Nội Vụ phê chuẩn cho xuất cảnh nhưng ngoài tên họ, hai hồ sơ
này không cung cấp một chi tiết nhỏ nào về gia tịch hay quá khứ của những cá nhân
này. Dĩ nhiên là Hoa Thịnh Ðốn phải từ chối không nhận những người có tên trong hai
danh sách đó; một nhân viên di trú Hoa Kỳ còn châm biếm thêm là 30.000 tên được liệt
kê trong đó tương tự như bản danh mục 'Who's Who in Chợ Lớn.' Trong năm 1979, Hoa
Thịnh Ðốn thông báo cho Hà Nội biết danh tính của 5.000 người được chấp thuận cho di
cư sang Hoa Kỳ, nhưng chỉ có 228 người được Bộ Nội Vụ cấp visa xuất cảnh để ra đi.
Khi bị hỏi tại sao chính quyền Hà Nội quá chậm trễ trong việc thực hiện chương trình
ODP, Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cơ Thạch đã đổ thừa cho sự trì trệ của bộ máy thư
lại CHXHCN Việt Nam.[76]
Trong trường hợp liên quan đến Gia Nã Ðại, Hà Nội đòi hỏi Ottawa phải thâu nhận một
di dân Việt Nam do đảng CSVN đề nghị để đánh đổi một visa xuất cảnh mà Bộ Nội Vụ
cung cấp cho mỗi người được phép ra đi theo diện đoàn tụ gia đình. Song song với yêu
cầu này là lời hăm dọa của Hà Nội qua Giám Ðốc Ngoại Giao Vụ Vũ Khoan vốn đã công
khai tuyên bố rằng nếu đề nghị này không được chấp thuận thì đảng CSVN sẳn sàng
xuất cảng thêm nhiều kiện hàng người sang các quốc gia lân bang. Như đã bàn ở phần
trên, chương trình ODP mở thêm một cơ hội mới cho đảng Cộng Sản Việt Nam tầm lợi
trên sự tủi nhục của nhân dân, và cuộc buôn lậu lương dân của Hà Nội vẫn được tiếp
tục dưới một bình phong mới được chính cộng đồng quốc tế hoạch định và hoan
nghinh.
Vào tháng 1-1981, Hà Nội tự ý đình chỉ chương trình ODP. Bảy tháng sau đó, chương
trình này được hồi sinh sau khi một số thỏa ước mới được ký kết giữa Hà Nội và các
quốc gia liên hệ.[77] Chương trình Ra Ði Trật Tự thật sự thất bại vì không đưa ra được
một giải pháp hữu hiệu và lâu dài cho cơn khủng hoảng tị nạn Việt Nam mà cộng đồng
quốc tế đã hy vọng cũng như không tạo được ảnh hưởng đối với phong trào vượt biên
bí mật do chính nhân dân tự tổ chức bởi vì những người tị nạn này không bao giờ có thể
thoát khỏi gộng kềm đàn áp của đảng CSVN qua ngã ODP. Trong khi đó chương trình
Ra Ði Trật Tự lại tạo ra nhiều cơ hội cho đảng Cộng Sản Việt Nam thâu thêm vàng và
tiền hối lộ trong việc buôn bán visa xuất cảnh. Một hệ thống giấy tờ phức tạp và một
mạng lưới 'cò giấy tờ' đi cửa sau đã được tổ chức để bòn rút tài vật của những gia đình
được bảo lãnh di cư. Tất cả những người chuẩn bị ra đi theo chương trình ODP lập tức
bị đuổi việc và phải sống bám vào nguồn tài trợ của thân nhân ở nước ngoài; và sinh
viên tốt nghiệp đại học bị yêu cầu phải hoàn trả chi phí đào tạo cho đảng CSVN trước
khi được cấp visa xuất cảnh.
Theo lời kể của bà Thu Vân ở Montreal, Gia Nã Ðại, gia đình của bà bao gồm 7 người bị
bắt phải đóng $5.000 Mỹ kim cho Bộ Nội Vụ lúc nộp đơn xin di cư sang Canada trong
khi lợi tức hàng năm của mỗi người Việt Nam thấp hơn $200 Mỹ kim; ba năm sau, họ
còn phải đóng thêm $3.000 Mỹ kim nữa cho bộ hồ sơ mới trước khi được cấp giấy phép
ly hương. Gia đình của ông Bành Quý ở New York đã trả giá cao hơn nữa; gia đình 8
người của ông phải đóng $25.000 Mỹ kim cho Bộ Nội Vụ để được đi theo diện ODP. Ðây
chỉ là hai trường hợp điển hình của tệ nạn hối lộ trắng trợn nhưng rất phổ thông liên
quan đến chương trình Ra Ði Trật Tự ở CHXHCN Việt Nam; tuy vậy miễn là tệ nạn này
nằm bên trong biên thùy Việt Nam và không ảnh hưởng đến quốc gia lân bang thì các
chính quyền ngoại quốc vốn đã sẳn thiếu thốn lòng nhân đạo không cần quan tâm.
Một trong các mục tiêu của chương trình Ra Ði Trật Tự là bài trừ kế hoạch buôn người
của Hà Nội, nhưng trên thực tế thì chương trình ODP chỉ giảm bớt chứ không hoàn toàn
thủ tiêu được âm mưu đen tối của đảng Cộng Sản Việt Nam nhằm tầm lợi lâu dài trên
sự tủi nhục của thuyền nhân. Sau hội nghị quốc tế về tị nạn Ðông Dương năm 1979, kế
hoạch buôn lậu lương dân đã được Hà Nội tiếp tục âm thầm thực hiện ít nhất là trong
vòng một con giáp nữa. Ðiển hình là vào tháng 11-1987, một tàu Hải Quân Cộng Sản
Việt Nam đã tháp tùng một ghe vượt biên từ Cà Mau ra Rạch Giá để lấy người ở Phụng
Hiệp và sau đó ra khơi. Hai công an và bốn sĩ quan hải quân cao cấp trực tiếp hiện diện
trên ghe vượt biên để bảo đảm sự an toàn của chuyến đi; sau khi ghe ra đến hải phận
quốc tế, nhóm công an và sĩ quan cộng sản chuyển qua tàu hải quân tháp tùng để trở
về Việt Nam. Mỗi người trong số 182 hành khách trên ghe trả từ 4 đến 5 cây vàng để
tham gia chuyến đi do hải quân và công an Hà Nội tổ chức; và sau 2 ngày và 3 đêm
vượt biển, họ đã đến được Mã Lai an toàn.[78]
Chương trình Ra Ði Trật Tự vốn được 65 phái đoàn quốc gia tham dự hội nghị quốc tế
về tị nạn Ðông Dương năm 1979 tán thành không những đã thất bại trong mục tiêu tạo
cơ hội cho dân tị nạn Việt Nam ra đi trong vòng an toàn và ngăn chận kế hoạch buôn
lậu lương dân của Hà Nội mà còn vi phạm trầm trọng điều khoản 13 của Bản Tuyên
Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ('mọi người có quyền rời khỏi bất cứ quốc gia nào, kể cả đất
nước của mình, và quyền trở về nguyên quán')[79] bởi vì chương trình ODP chính thức
cho phép đảng Cộng Sản Việt Nam toàn quyền kiểm soát 'quyền rời khỏi' đất nước của
nhân dân. Các tiến triển liên quan đến thảm trạng thuyền nhân sau này cho thấy là
những người Việt tị nạn thật sự phải chịu nhiều gian truân hơn trong khi chương trình
ODP và một số thỏa ước quốc tế không đủ khả năng để bảo vệ họ một cách hữu hiệu.
Kết quả quan trọng nhất của hội nghị quốc tế về tị nạn Ðông Dương I có lẽ là sự thành
công khả quan của hội nghị trong nỗ lực đánh thức lương tâm nhân loại về thảm trạng
thuyền nhân cũng như du trình kinh hãi của các nhóm tị nạn khác. Thảm trạng thuyền
nhân chính thức được quốc tế hóa và thu hút được sự lưu tâm của nhiều chính quyền
cũng như lòng trắc ẩn của đa số cộng đồng các dân tộc trên toàn thế giới. Một số kết
quả cụ thể khác của hội nghị có thể được liệt kê như sau:
● Số lượng định cư tại đệ tam quốc gia tăng lên 260.000 người từ 125.000 người trước
đó.
● Nguồn tài trợ cho ngân quỹ tị nạn Ðông Dương tăng lên đến $190 triệu Mỹ kim.
● Các quốc gia thỏa thuận là sẽ hợp tác trong nỗ lực cứu giúp thuyền nhân bị hoạn nạn
trên biển.
● Một ngân quỹ $25 triệu Mỹ kim được trù hoạch để tái định cư dân tị nạn Ðông Dương
tại các quốc gia đang phát triển.
● Phi Luật Tân tình nguyện cung cấp địa điểm cho một trung tâm tiến hành thủ tục tái
định cư cho khoảng 50.000 dân tị nạn. (Vào tháng 12-1980, trung tâm chuyển tiếp
Galang Regional Processing Center đã mở cửa, song song với trại tị nạn Galang, ở Nam
Dương để đón nhận thuyền nhân từ Tân Gia Ba và Thái Lan.)
● Hà Nội vô hình chung xác nhận vai trò chủ chốt của đảng Cộng Sản Việt Nam trong kế
hoạch buôn lậu lương dân và đồng ý chấm dứt việc xuất cảng hàng-vận nhân cũng như
chấp thuận cho công dân Việt Nam được ra đi an toàn trong khuôn khổ ODP.
Ðối diện thực trạng mới với các điều kiện thuận tiện và sự bùng nổ của phong trào bảo
trợ thuyền nhân Việt Nam trên toàn thế giới, các quốc gia lân bang bắt đầu thi hành các
điều kiện cam kết tại hội nghị quốc tế về tị nạn Ðông Dương I ('Within the framework of
the over-all solutions envisaged, Governments of the port of call must allow the
disembarkation of all those rescued.') Mã Lai chấm dứt chính sách xua đuổi ghe tị nạn
và tiếp tục cho thuyền nhân được cập bợ Thái Lan cũng bãi bỏ chính sách ngăn chận
dân tị nạn Việt Nam nhập cự Chương trình cứu trợ thuyền nhân trên biển được hồi sanh
trong luồng sinh khí mới năng động và hăng hái hơn với sự tham dự sốt sắng của nhiều
tàu do các tổ chức phi chính phủ tài trợ lẫn các chiến thuyền của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa
Kỵ
Mặc dầu sau hội nghị quốc tế về tị nạn Ðông Dương năm 1979 thế giới chứng kiến được
một giai đoạn cứu trợ thuyền nhân tương đối hoàn mỹ, kết luận khách quan dựa trên sự
phân tích tổng quát cho thấy hội nghị lịch sử này đã hoàn toàn thất bại trong nỗ lực tìm
kiếm một giải pháp lâu dài cho cơn khủng hoảng tị nạn Ðông Dương. Nguyên nhân
chính gây ra thảm trạng thuyền nhân không được giải quyết thỏa đáng, và chính quyền
Hà Nội đã không bị áp lực ngoại giao khuyến dụ để tôn trọng sự tự do của nhân dân
cũng như tất cả các phương tiện sinh kế và lý tưởng phi cộng sản. Vì vậy cho nên làn
sóng thuyền nhân vẫn tiếp tục thêm gần 20 năm nữa và luôn luôn đặt các chính quyền
lân bang trong tình trạng báo động, đặc biệt khi số lượng dân tị nạn Ðông Dương được
nhận định cư tại đệ tam quốc gia sa sút trầm trọng trong những năm sau nàỵ
※ Source: Thuyền Nhân: Ấn Tích Lịch Sử ۩ Lloyd Duong Ͼ 2000
Phụ Chú:
58 Chair of the Commission on the Holocaust Elie Wiesel expressed outrage '.. at the
sight of people set adrift with no country willing to welcome them ashorẹ We are
horrified at the imposition of quotas which exclude women and children in the full
knowledge that such a policy of exclusion can be a sentence of death.' New York Times,
25 June 1979.
59 'It would be nice if the government of (Socialist) Vietnam were not the government
of Vietnam and it had the kinds of policies which enabled these people to remain, but it
is what it is, and we have got to deal with the subsequent realities. In the 1930's
somebody might have said that Nazi Germany should change its policies to
accommodate the needs of the Jewish people in Germany so that they would not want
to leave, but the reality of the situation was that the Nazis were not about to change
their policy, and the only real question (is).. whether we were going to open our doors
to the people who were desperate to get out.' Indochinese Refugees, House Committee
on Foreign Affairs, Subcommittee on Asian and Pacific Affairs, 22 May 1979.
60 Thị Trường Chung Châu Âu đã quyết định đinh chỉ tài trợ kinh tế cho Hà Nội và sử
dụng nguồn tài chánh đó vào việc cứu trợ thuyền nhân. Vào ngày 5-9-1979, Quốc Hội
Hoa Kỳ thông qua dự luật ngăn cấm tất cả các nguồn tài trợ cho CHXHCN Việt Nam và
chấp thuận thêm ngân khoản $207 triệu Mỹ kim nhằm giúp đỡ dân tị nạn Ðông Dương.
61 'Despite our efforts and those of a few other countries - notably France, Australia,
and Canada - the world's response is grievously inadequatẹ What is needed, and this
clearly comes to the nub of the problem.. is clearly leadership.. The President and the
Congress must clearly enunciate a national commitment to resolve this present human
crisis and call on the rest of the free world to work with us.. We certainly will press as
hard as we can for a meaningful American response to that crisis. This nation has done
it in the past, there is no reason why we cannot do it now.' Indochinese Refugees,
House Committee on Foreign Affairs, Subcommittee on Asian and Pacific Affairs, 22 May
1979.
62 'Special statement of the Tokyo Summit on Indochinese refugees.'
63 'Another form of inhumanity, equal in scope and similarly heinous' to the holocaust.'
64 'A poor man's alternative to the gas chambers is the open seá
65 'We are again called to consider one of the most inhuman and unnecessary tragedies
in the calendar of human suffering.'
66 'Much is at stake: fundamental principles of law and of conduct, the future of
countless people and the sanctity of human life, the will and capacity of the international
community to respond in union and in full measuré
67 Một vụ phản đối tương tự cũng đã xảy ra ở Gia Nã Ðại khi cộng đồng tị nạn Việt Nam
dựng tượng 'Bà mẹ và đứa con tị nạn' tại thủ đô Ottawa vào ngày 22-8-1996 để 'tưởng
niệm những đồng bào đã mất mạng trên đường đi tìm tự dó Sứ quán Hà Nội yêu cầu
chính quyền bản xứ ra lệnh cấm cản việc dựng tượng và đe dọa là sự việc sẽ tạo ảnh
hưởng xấu cho quan hệ giữa hai quốc gia, nhưng Ottawa từ chối bởi vì là Canada là một
đất nước dân chủ cho nên quyền tự do ngôn luận của công dân phải được bảo vệ tuyệt
đốị
68 Hội nghị cũng đánh dấu lần đầu tiên chính quyền Liên Sô và chính quyền các nước
cộng sản Ðông Âu tham dự một cuộc thảo luận quốc tế về vấn đề tị nạn.
69 'As a result of my consultations, the government of Socialist Republic of Vietnam has
authorized me to inform you that for a reasonable period of time it will make every
effort to stop illegal departures. In the meantime, the government of Vietnam will
cooperate with the UNHCR in expanding the present seven-point program designed to
bring departures into orderly and safe channels.'
70'All wére seeing at present is the same sort of clandestine departure that has been
going on since 1975.'
71 'Intensive interviewing confirmed that the new arrivals were genuine escapees. They
were overwhelmingly ethnic Vietnamese from the southern part of the countrý The
Refused: The Agony of the Indochina Refugees, Barry Wain, Supra, at p. 227.
72 'The present dangerous and inhuman exodus should be substituted by orderly
departures. We appeal to the government of Vietnam to pursue this line of action..'
73 Một trong vài chương trình Ra Ði Trật Tự còn hoạt động cho đến năm 1999 là
chương trình của Hoa Thịnh Ðốn. Văn phòng ODP của Hoa Kỳ trên đường Pasteur ở Sài
Gòn, bây giờ là thành phố HCM, chỉ chính thức đóng cửa vào ngày 30-9-1999. Chương
trình Ra Ði Trật Tự của Hoa Kỳ chú trọng vào các hồ sơ đoàn tụ gia đình, định cư con lai
(the 1988 Amerasian Homecoming Act) và một số cựu tù nhân cộng sản (the
Humanitarian Operation có lẽ là một trong vài chương trình hiếm có đã cứu trợ được
một số đồng bào tị nạn đáng kể). Ngoại trừ trong vài trường hợp đặc biệt, đa số những
đồng bào quốc nội muốn xin tị nạn với lý do chánh đáng vẫn bị bỏ rơi vì không có cơ hội
gặp phái đoàn Hoa Kỳ.
74 Vai trò chủ động tầm lợi của Hà Nội trong chương trình ODP được thể hiện rõ ràng
qua sự bất lực của các chính quyền nước ngoài trong tiến trình duyệt xét thủ tục định
cư cho người Việt ở quốc nộị Tòa Ðại Sứ Gia Nã Ðại ở Thái Lan có sẵn cả mẫu thư trả lời
cho thân nhân đứng đơn bảo lãnh ở Gia Nã Ðại với một đoạn văn tiêu cực như sau:
'Tình trạng hồ sơ: (1) Chưa được chính quyền Việt Nam cho phỏng vấn.. Tòa Ðại Sứ Gia
Nã Ðại không thể liên lạc với đương sự cho đến khi tên của đương sự có trong danh
sách phỏng vấn của Việt Nam.' ('The status of the case is: (x) 1. Not yet presented by
the Vietnamese authorities for interview.. The Canadian Embassy has no access to any
applicant until his name appears on the Vietnamese interview list.')
75 Most refugees 'are from the south, from Ho Chi Minh City in particular. In 1975, we
forbade them to go out. We were criticized by the west. We thought it over. We decided
to give them the freedom to gọ Now (the west) say we are exporting refugees. So now
we say that they must ask to gọ And we will allow them to gó Asiaweek, 15 June 1979.
76 'Minutes of Discussion with Nguyen Co Thach, Secretary of State for Foreign affairs,
Office of the Premier, and Members of Congressional Delegation, Hanoi, August 9,
1979,' as recorded in US Congress, House Committee on Foreign Affairs, 'The
Indochinese Refugee Situation,' August 1979, Report of a Study Mission of the US House
of Representatives, 2-11 August 1979, 96th Congress, 1st session, 16 September 1979,
at pp.63-78.
77 Trong 5 năm đầu, chương trình ODP đưa ra danh sách khoảng 1 triệu người cần
được thẩm vấn nhưng chính quyền Hà Nội đã phản ứng rất chậm chạp trong việc tiến
hành các hồ sơ nàỵ Sự định cư của đồng bào chỉ bắt đầu gia tăng từ năm 1981 với số
người ra đi là 9.815. Vào tháng 1-1986, Hà Nội tự động đình chỉ chương trình ra đi
trong vòng trật tự rồi lại cho hồi sinh một tháng sau đọ
78 Phỏng vấn anh Nguyễn Dung tại Lloyd Duong Attorneys Atrium vào ngày 20-4-1999.
Anh Nguyễn được Canada nhận cho định cư vào năm 1989.
79 'Everyone has the right to leave any country, including his own, and to return to his
country’
The boat people's sufferings invoked bitter memories about the tragic fates of innocent Jewish refugees during World War II. The international press began to report on the dreadful journey of Vietnamese refugees, who had become defenseless victims of the 'Asian holocaust' in the eye of many observers. Numerous humanitarian agencies actively called on world leaders to take immediate actions to assist and resettle the boat people to prevent the reoccurrence of another holocaust.
While Terence Cardinal Cooke of New York on behalf of 100 million Jews and Christians called on the U.S. and U.N. to help Vietnamese Asylees, Chair of the Commission on the Holocaust Elie Wiesel expressed outrage '.. at the sight of people set adrift with no country willing to welcome them ashore. We are horrified at the imposition of quotas which exclude women and children in the full knowledge that such a policy of exclusion can be a sentence of death.'[1] Many U.S. lawmakers such as Senators Dole, Boschwiz and Hayakawa, and Congressman McCloskey also voiced their concern over Washington's lack of leadership. Representative Stephen Solarz urged the administration to admit more boat people:[2]
'It would be nice if the government of (Socialist) Vietnam were not the government of Vietnam and it had the kinds of policies which enabled these people to remain, but it is what it is, and we have got to deal with the subsequent realities. In the 1930's somebody might have said that Nazi Germany should change its policies to accommodate the needs of the Jewish people in Germany so that they would not want to leave, but the reality of the situation was that the Nazis were not about to change their policy, and the only real question (is).. whether we were going to open our doors to the people who were desperate to get out.'
Under mounting public pressure, the White House gradually realized the need to provide leadership to the international community in dealing the Indochinese refugee crisis. Washington recognized that the prestige of leadership came with a price, i.e. unless the American government undertook an active role in assisting and resettling the boat people, the U.S. could not use its influence to attract international interests to resolve this humanitarian crisis and other subsequent gigantic challenges. A new policy began to gain more support within the Carter Administration; it called for the punishment of Hanoi for its inhumane policy[3]and the involvement of the international community in a joint effort to find a durable solution to the refugee problem in Southeast Asia.
In the spring of 1979, out of the fear that continuing inaction would eventually bring about a holocaust at sea, the U.S. officiated its leadership in the endeavor to help Indochinese refugees. In his warning to Congress that 'the volcano is about to blow,' Chairman of the International Rescue Committee Leo Cherne elaborated on the need for American leadership as follows:[4]
'Despite our efforts and those of a few other countries - notably France, Australia, and Canada - the world's response is grievously inadequate. What is needed, and this clearly comes to the nub of the problem.. is clearly leadership.. The President and the Congress must clearly enunciate a national commitment to resolve this present human crisis and call on the rest of the free world to work with us.. We certainly will press as hard as we can for a meaningful American response to that crisis. This nation has done it in the past, there is no reason why we cannot do it now.'
To set the stage for the international community's participation in the rescue of Vietnamese boat people, President Carter announced the U.S. plan to double the Indochinese refugee admission to 14,000 persons per month. In response to President Carter's lobby at the Group of Seven's economic summit in Tokyo, Japan agreed to bear half of the UNHCR's 1979 budget and the operating costs of refugee camps.
Hanoi’s policy toward the boat people caused the Group of Seven to issue a ‘special statement of the Tokyo Summit on Indochinese refugees’ in June 1979. It depicted the refugee tragedy in Southeast Asia as ‘a humanitarian problem of historical proportions’ and pledged to ‘significantly increase their contributions to Indochinese refugee relief and resettlement by making funds available and by admitting more people… while taking into account the existing social and economic circumstances in each of their countries.’ The Vietnamese communist regime's expulsion policy was compared to Hitler’s systematic murder of the Jews by Filipino Foreign Minister Carlos Romulo, who characterized it as ‘another form of inhumanity, equal in scope and similarly heinous’to the holocaust. His Singapore’s counterpart Sinnathamby Rajaratnam publicly depicted Hanoi’s scheme as ‘a poor man’s alternative to the gas chambers is the open sea.’
On July 20, 1979, sixty-five nations including Socialist Vietnam conferred in Geneva under the United Nations’ umbrella to find a solution to the Indochinese refugee crisis. According to Australian Minister for Immigration and Ethnic Affairs Michael MacKellar, ‘We are again called to consider one of the most inhuman and unnecessary tragedies in the calendar of human suffering.’ And the delegates to this historic U.N. conference had found: 'Much is at stake: fundamental principles of law and of conduct, the future of countless people and the sanctity of human life, the will and capacity of the international community to respond in unison and in full measure.'
The failure of the 1938 Evian Conference to offer resettlement places for Jews, who were consequently slaughtered by Hitler, was still fresh in the mind of many delegates attending the first global convention on Indochinese refugees. The world hoped that the 1979 conference would create more resettlement opportunities for Vietnamese boat people and could pressure Hanoi into eliminating its role in the trade in human misery and respecting fundamental human rights, including the right of unhindered emigration as proclaimed by the Universal Declaration of Human Rights. It is interesting to learn that the overseas Vietnamese community successfully held an influential demonstration at that event causing serious embarrassments for Hanoi’s delegation led by Deputy Foreign Minister Phan HiŠn. A big banner held by two Vietnamese refugees read ‘TOUT LE PEUPLE VIETNAMIEN CONTRE LA CLIQUE DE HANOI’ (All the Vietnamese people oppose the Hanoi clique.) Hanoi was so offended that its delegation demanded the banner be removed before it would attend the conference.[5]
The Meeting on Refugees and Displaced Persons in South East Asia - the largest-ever international conference on refugees in history[6]attended by 65 official delegations along with other countries’ observing representatives, and government agencies as well as non-governmental organizations - exposed the ugly truths about Hanoi’s strategy in dealing with the boat people. The delegates to the Conference were able - with limited degrees of success - to pressure Hanoi to suspend its ‘freedom for sale’ ploy and ease emigration restrictions to allow overseas family reunions and sponsorships. At the end of the meeting, U.N. Secretary General Waldheim announced publicly:
‘As a result of my consultations, the government of Socialist Republic of Vietnam has authorized me to inform you that for a reasonable period of time it will make every effort to stop illegal departures. In the meantime, the government of Vietnam will cooperate with the UNHCR in expanding the present seven-point program designed to bring departures into orderly and safe channels.’
It should be noted that earlier Hanoi refused to acknowledge its involvement in organizing human cargoes of ship people. Before the Conference, Hanoi tried desperately to dissociate itself from the trade in human misery by manipulating an incident involved the Greek cargo vessel, the Nikitas F. The vessel’s crew was prosecuted on unsubstantiated refugee trafficking charges when it delivered 11,400 tons of wheat to Vietnam on May 26, 1979. Found guilty of aiding 69 stowaways, the vessel and its operators were fined more than U.S. $10,000. The vessel’s master, Samothrakitis Komniwos, told Hong Kong marine authorities later that it was his officers who found the stowaways on board and asked Vietnamese security cadres for assistance to remove them; ironically, they were indicted by Hanoi on refugee trafficking charges. This incident was just a desperate act by Hanoi to distant itself from the huge human cargoes that it sent out to neighboring states. If the Nikitas F were involved in refugee racketeering, it would be unlikely that only 69 people were allowed on board; and it is also interesting to note that the Nikitas F was permitted to leave Ho Chi Minh City port without having to pay a penny of the huge fine.
After the U.N. conference in July 1979, to demonstrate its eagerness to carry out the previously promised obligations, Hanoi sentenced to death several detained escapees including former South Vietnamese soldier TrÀn Minh Châu who was executed on August 6, 1979 for organizing a secret departure aboard a stolen government's fishing boat. The harsh judgment was merely for show and TrÀn Minh Châu became a scapegoat; yet the masterminds behind the CPV’s massive ‘freedom for sale’ ploy were untouched. In early August 1979, to prove Hanoi’s determination to stop illegal departures, Foreign Minister NguyÍn CÖ Thåch exaggerated to the visiting U.S. House of Representatives mission headed by Benjamin S. Rosenthal that Hanoi had successfully prosecuted 4,000 cases of failed escapes (organized by ordinary individuals) within the past 7 months (at the peak of Hanoi's export of human cargoes).
By August 1979, the Vietnamese communist regime appeared to have temporarily suspended its sanctioned ‘freedom for sale’ project because the number of departures by sea declined significantly. Of the 201,189 arrivals in 1979, more than 160,000 refugees came before the international conference in July 1979; and after the conference, the cumulative 6-month arrivals dropped by 75% to 41,000 persons. A refugee official in Malaysia reflected in 1980 that: ‘All we’re seeing at present is the same sort of clandestine departure that has been going on since 1975.’ Journalist Barry Wain observed: ‘Intensive interviewing confirmed that the new arrivals were genuine escapees. They were overwhelmingly ethnic Vietnamese from the southern part of the country..’ [7] In Hong Kong, 98% of the boat people arriving after 1979 were ethnic Vietnamese.
Swedish Foreign Minister Hans Blix’s appeal for the orderly unhindered exit of refugees was well received by the U.N. conference delegates,[8]and Hanoi promised to carry out its obligations contained in the 7-point ‘Memorandum of Understanding’ concluded with the UNHCR on May 30, 1979. The Memorandum enlisted the UNHCR’s help to implement Hanoi’s new emigration policy pronounced on January 12, 1979 and enforced by a Cabinet’s directive dated March 14, 1979. Vietnamese citizens were allowed to emigrate overseas for family reunion or employment purposes. The Orderly Departure Program (ODP) was born with a theoretical objective of providing for a systematic outflow of émigrés from Vietnam while the CPV would refrain from organizing profit-making departures.[9] Hanoi’s Foreign Minister NguyÍn CÖ Thåchcommented on the orderly departure program in June 1979 that most refugees ‘are from the south, from Ho Chi Minh City in particular. In 1975, we forbade them to go out. We were criticized by the west. We thought it over. We decided to give them the freedom to go (via Hanoi-controlled routes only). Now (the west) say we are exporting refugees. So now we say that they must ask to go. And we will allow them to go (under the ODP).’[10]
In practice, the ODP implementation contained many serious obstacles because only those approved by Hanoi could leave Socialist Vietnam, i.e. the final decision on the right to leave lied with Hanoi, whose policy of inhumanity appeared to continue to pay enormous dividends.[11] Naturally, genuine refugees needed not apply to have their names included on Hanoi’s list because a public revelation of their sufferings at the hands of communist cadres would send them straight to re-education prisons. Similarly, resettlement countries would rightly be more receptive to relatives of their naturalized citizens and permanent residents, instead of some unknown fee-paying individuals who bribed to have their names on Hanoi’s list. Another legal problem also arose, i.e. how would those leaving under the ODP arrangements be classified: immigrants or refugees? The international community should be concerned with the protection of refugees; but how many genuine refugees could seek asylum within the ODP framework, which was clearly steered toward family reunions and relative sponsorships?
In the case of the United States, Hanoi initially handed over two lists containing some 30,000 names with virtually no personal information attached therein, and thus there was no way to confirm the status of the potential émigrés. In 1979, of the 5,000 names submitted by Washington, only 228 persons were given exit visas by Hanoi; Foreign Minister NguyÍn CÖ Thåch blamed red tape when asked to explain Hanoi’s slow response.[12]
In the case of Canada, Hanoi insisted that Ottawa had to grant residency status for one candidate proposed by the communist regime in exchange for every émigré admitted under the family reunion class. Hanoi’s demand came with a threat from its Foreign Ministry’s Consular Affairs Director, VÛ Khoan, who stated plainly that if Socialist Vietnam’s offer was not accepted then the regime would not hesitate to once again export human cargoes to neighboring states. The ODP thus opened new windows for abuses, and Hanoi’s ‘freedom for sale’ project was being carried out under a new internationally-approved cover.
In January 1981, Hanoi unilaterally discontinued the ODP process. The program was reinitiated in August after new agreements were reached between Socialist Vietnam and resettlement countries, and thereafter it continued in fits and starts.[13] The ODP failed to offer the real durable solution that the international community previously hoped for, and had no effect on the ordinary escapes unsanctioned by the CPV because there were many genuine refugees, who could not expect to be allowed to flee communist persecution through the regime-controlled ODP framework.
On the other hand, the ODP presented boundless opportunities for Hanoi’s officials to extract bribes for exit visas. A system of complex regulations and a web of ‘cò giÃy t©’ (back-door process servers) were instituted to collect fees and grafts from ODP applicants. All those, who applied to leave Socialist Vietnam, immediately lost their jobs and became dependent on financial support from their overseas relatives; and university graduates had to repay their ‘training costs’ before receiving exit visas. In the case of Ms. Thu Vân in Montreal, Canada, her family of seven in Vietnam was required to pay U.S. $5,000[14]to Hanoi when applying for permanent residency in Canada in 1979. Three years later, the family was requested to resubmit a new application and a further fee of U.S. $3,000. Mr. Bành Quš, a refugee residing in New York, paid even more; the ODP departure cost for his family of eight was U.S. $25,000. ODP-led corruption was rampant in Socialist Vietnam but, as long as the problem was not extraterritorial, it did not really concern the outside world inherently short of compassion.
The ODP was supposed to eliminate Hanoi's trade in human misery but, in reality, it only helped to reduce - but could not abolish - the communist involvement in the export of human cargoes. Hanoi's trade in human misery continued for at least another decade after the 1979 international conference on Indochinese Refugees. In one clear instance, in November 1987, a Vietnamese Navy ship escorted a civilian boat from Cà Mau to Råch Giá; it stopped and picked up fare-paying passengers at Phøng HiŒp before setting sail for the open sea. Two high-ranking security officers and four navy officers were on board the civilian boat until it reached international waters to ensure a smooth departure. The cadres then returned to Vietnam on the accompanied navy vessel. The 182 passengers on the boat paid between 4 and 5 taels of gold each for the officially sponsored trip to freedom; and it took them 2 days and 3 nights to reach Malaysia safely.[15]
The ODP framework endorsed by delegates to the first international conference on Indochinese refugees clearly failed its preset objective of providing for a systematic outflow of Vietnamese asylum-seekers while preventing Hanoi from organizing charter departures. More importantly, the ODP blatantly violated the principle pronounced by Article 13 of the 1948 Universal Declaration of Human Rights (‘everyone has the right to leave any country, including his own, and to return to his country’) because it sanctioned Hanoi’s infringement of Vietnamese citizens’ ‘right to leave.’ Subsequent developments revealed that many genuine refugees from Socialist Vietnam eventually suffered severely due to compassion fatigue while the ODP and other similar international instruments could not offer adequate protection for them.
The single most significant achievement of the first international conference on Indochinese refugees was perhaps its success in awaking human conscience about the dreadful flight of the boat people and other asylum-seekers. The boat people tragedy was effectively internationalized and thereafter attracted tremendous global concerns as well as incredible humanitarian responses. Other concrete achievements of the Conference could be summarized as follows:
· A substantial increase in the number of committed resettlement places from 125,000 on May 31 to more than 260,000 on July 21, 1979.
· New financial pledges totaling about $190 million in cash and kind.
· Pledges to coordinate international rescue efforts to assist the boat people in distress at sea.
· $25 million was offered for a proposed fund to extend resettlement to developing countries which were ready to receive refugees but lacked the necessary resources.
· A site for a refugee processing center capable of sheltering up 50,000 Asylees was offered by the Philippines. (In December 1980, the Galang Regional Processing Center, in addition to the existing Galang Refugee Camp, was opened in Indonesia to process boat people from Singapore and Thailand.)
· Hanoi inadvertently admitted the Vietnamese Communist Party's expulsion policy and its leading role in the trade of human misery, and thereafter agreed to suspended its ‘freedom for sale’ scheme.
In response to the new favorable conditions, first-asylum countries began to carry out their obligations as recommended by the conference: 'Within the framework of the over-all solutions envisaged, Governments of the port of call must allow the disembarkation of all those rescued.' Malaysia quietly abandoned its official tow-out practice and continued to allow the boat people to disembark. Thailand also stopped its blockage of arriving refugees. The international rescue effort was restarted with new enthusiasms and galvanized participation of private ships and the U.S. Seventh Fleet vessels.
In the final analysis, however, the historic conference failed to provide any long-term solution to the Indochinese refugee tragedy. The root cause of the exodus was not addressed properly, and Hanoi was not bounded in any way to respect the Vietnamese people’s liberty, non-communist beliefs and ways of life. As a result, the boat people’s escapes did not cease completely but continued to place tremendous pressures on neighboring states, especially when the resettlement of asylum-seekers slowed down significantly in later years.
※ Source: The Boat People: Imprints on History ۩ Lloyd Duong Ͼ 2000
___________
[1] New York Times, 25 June 1979.
[2] Indochinese Refugees, House Committee on Foreign Affairs, Subcommittee on Asian and Pacific Affairs, 22 May 1979.
[3] The European Common Market already voted to suspend economic aid to Hanoi and use those funds to help the boat people. On September 5, 1979, the U.S. House of Representatives voted to bar any direct or indirect aid to Socialist Vietnam while approved an additional $207 million to assist refugees in Southeast Asia.
[4] Indochinese Refugees, House Committee on Foreign Affairs, Subcommittee on Asian and Pacific Affairs, 22 May 1979.
[5] A similar objection by Hanoi was made to the Canadian government when the Vietnamese community erected the ‘Refugee Mother and Child’ statue on August 22, 1996 ‘in memory of those who have lost their lives in their quest for freedom.’ Ottawa flatly repudiated Hanoi’s objection on the basis that Canada is a democracy and thus all citizens’ freedom of expression is guaranteed.
[6] This conference also marked the first time that the former USSR and eastern European countries attended a major international convention on refugees.
[7] The Refused: The Agony of the Indochina Refugees, Barry Wain, Supra, at p. 227.
[8] ‘The present dangerous and inhuman exodus should be substituted by orderly departures. We appeal to the government of Vietnam to pursue this line of action..’
[9] At least one orderly departure program pursuant to the 1979 ‘Memorandum of Understading’ lasted until late 1999. The U.S. ODP office located on Pasteur Street in Saigon officially closed down on September 30, 1999. The U.S. program was steered toward family reunion and admission of Amerasians (the 1988 Amerasian Homecoming Act) and a limited number of former prisoners with lengthy incarceration records (the Humanitarian Operation perhaps was one of a very few programs that actually rescued a number of genuine refugees). Except in extraordinary cases, most other asylum-seekers did not qualify for the U.S. program.
[10] Asiaweek, June 15, 1979.
[11] The controlling role of Hanoi over the entire ODP procedures was clearly reflected in the inability of foreign governments to gain access to potential candidates. For example, the Canadian Embassy in Thailand even had a standard letter to answer its citizens and residents' sponsorship inquires with a very passive response that provided virtually no valuable information:
'The status of the case is: (x) 1. Not yet presented by the Vietnamese authorities for interview.. The Canadian Embassy has no access to any applicant until his name appears on the Vietnamese interview list.'
[12] ‘Minutes of Discussion with Nguyen Co Thach, Secretary of State for Foreign affairs, Office of the Premier, and Members of Congressional Delegation, Hanoi, August 9, 1979,’ as recorded in US Congress, House Committee on Foreign Affairs, The Indochinese Refugee Situation – August 1979, Report of a Study Mission of the US House of Representatives, August 2-11, 1979, 96th Congress, 1stsession, September 16, 1979, at pp.63-78.
[13] During the first five years in operation, the ODP listed approximately 1 million names but Hanoi was extremely slow in processing ODP applications. The number of orderly departures did not pick up until 1981 with 9,815 immigrants leaving Socialist Vietnam. In January 1986, Hanoi unilaterally suspended ODP procedures and then re-allowed ODP interviews to proceed a month later.
[14] In order to appreciate the depth of its outrageous unfairness, this substantial amount should be viewed in light of the fact that the annual income per capita in Socialist Vietnam was less than U.S. $200 at the time.
[15] Interview with passenger Dung Nguyen at Lloyd Duong Attorneys Atrium on April 20, 1999. Mr. Nguyen was admitted into Canada in 1989.
VI. CAO TRÀO QUỐC TẾ CỨU TRỢ THUYỀN NHÂN
Vai trò chủ chốt của đảng Cộng Sản Việt Nam trong kế hoạch xuất cảng các kiện hàng
người đã thu hút sự phản đối của thế giới, nhưng chính thảm trạng giết hại thuyền nhân
của hải tặc song song với chính sách ngược đãi dân tị nạn của các chính quyền lân bang
nhằm đối đầu với âm mưu tầm lợi của Hà Nội trên sự tủi nhục của dân tộc đã đánh thức
lương tâm của nhân loại. Nỗ lực xua đuổi ghe tị nạn bằng bạo lực súng đạn của các
quốc gia láng diềng cùng nhiều cuộc tấn công thuyền nhân đẩm máu của hải tặc dã
man là những hành động tàn nhẫn vô tiền khoáng hậu, và đã khiến nhiều cộng đồng
nhân dân trên toàn thế giới động lòng trắc ẩn. Kết quả là sự hình thành của một phong
trào cứu giúp tị nạn vĩ đại nhất nhì trong lịch sử nhân loại do chính các công dân bình
thường nhất bảo trợ.
Những thuyền nhân may mắn vượt thoát đến được bờ bến tự do ngay sau hội nghị quốc
tế về tị nạn Ðông Dương I đã được đón tiếp tương đối niềm nở do ảnh hưởng bao trùm
của phong trào quốc tế cứu giúp dân tị nạn đầy năng động và nhiệt tâm này. Cho đến
cuối thế kỷ 20, trong số 796.310 thuyền nhân và 42.928 bộ nhân vượt biên thành công,
trên 720.000 người đã được tái định cư khắp nơi trên toàn thế giới từ Á Châu, Phi Châu,
Úc Châu cho đến Mỹ Châu, Âu Châu và kể cả Trung Ðông. Sáu quốc gia đón nhận phần
lớn dân tị nạn Việt Nam là Anh, Ðức, Gia Nã Ðại, Hoa Kỳ, Pháp và Úc.
Tại Úc quốc, mặc dầu nhóm thiên tả cùng thành phần bảo thủ chống đối việc thâu nhận
thuyền nhân, 104.048 dân tị nạn Việt Nam đã được đón tiếp và cấp quy chế thường trú
nhân. Trong những ngày đầu khi đặt chân lên quê hương mới, những người tị nạn tạm
lưu tại các trung tâm di trú trước khi được đưa đi định cư ở các tỉnh khác. Thuyền nhân
hội nhập rất nhanh vào môi trường sống mới, và đa số đã sẳn sàng chấp nhận làm tất
cả các công việc nhỏ mọn để tìm cách sinh kế bất kể khả năng cũng như thành tựu của
họ trong quá khứ. Chỉ trong vòng một con giáp, cộng đồng tị nạn Việt Nam tại Úc đã
gầy dựng được thế đứng vững chãi trong xã hội mới và tạo được ảnh hưởng quan trọng
trên thương trường cũng như chính trường.
Tại Tân Tây Lan, dư luận hoàn toàn ủng hộ chương trình cứu giúp thuyền nhân. Tổ
chức nhà thờ cũng như các hội bảo trợ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc vận
động chính quyền cũng như quyên góp tài chánh để định cư dân tị nạn Việt Nam. Trong
số ân nhân bác ái, hai anh em Hugo và Bill Manson đã tích cực đóng góp rất nhiều trong
nỗ lực phổ biến thảm trạng thuyền nhân trong cộng đồng nhân dân Tân Tây Lan. Cặp
ký giả truyền hình Hugo và Bill Manson đã gởi thư thỉnh nguyện đến 230 cơ quan chính
quyền địa phương để yêu cầu họ giúp bảo trợ cho 3.200 thuyền nhân hay 1 thuyền
nhân cho mỗi 1.000 công dân. Hơn một nửa cơ quan chính quyền địa phương trả lời, và
trong số đó 80% chấp nhận đề nghị đầy thử thách này. Kết quả cuối cùng đã vượt quá
dự tính ban đầu; khoảng 4.371 thuyền nhân được đón tiếp đến định cư tại Tân Tây Lan
trong những tháng sau đó.
Tại Pháp quốc nơi 18.468 dân vượt biên Việt Nam chọn làm quê hương mới, cộng đồng
nhân dân địa phương đã hăng hái cứu trợ thuyền nhân. Trong những ngày đầu khi mới
đặt chân lên đất Pháp, dân tị nạn được tạm lưu tại một trong ba trung tâm của tổ chức
France Terre d'Asile. Họ được khám sức khỏe và phỏng vấn nhằm thẩm định nhu cầu
định cư. Những người có sẳn thân nhân tại Pháp có thể tự tầm nghiệp và tìm kiếm nơi
lưu trú riêng với sự giúp đỡ của gia đình. Những cá nhân khác được chuyển dần dần về
các trung tâm tỉnh để học thêm Pháp ngữ cũng như phong tục địa phương trước khi
trực tiếp gia nhập vào xã hội mới. Mặc dầu dân Pháp có thành kiến nặng nề với người di
dân, đặc biệt là các nhóm đến từ châu Phi, họ đã tỏ vẻ rất sốt sắng trong chương trình
bảo trợ thuyền nhân. Ðề nghị trợ giúp dân tị nạn Việt Nam từ khắp các tỉnh thành trên
toàn cõi Pháp quốc gia tăng ở mức độ bình phương; nhiều gia đình người Pháp đã xin
đón nhận thuyền nhân và bảo bọc họ trong khi họ chờ đợi sự giúp đỡ của cơ quan chính
quyền địa phương.
Tại Anh quốc nơi 17.677 thuyền nhân định cư, chính sách cứng rắn ban đầu của Luân
Ðôn thay đổi sau khi Bộ Trưởng Ngoại Giao Carrington viếng thăm các trại tị nạn ở Hồng
Kông và Ðông Nam Á. Trong khi giới truyền thông tích cực kêu gọi chính quyền thâu
nhận dân tị nạn Ðông Dương, dư luận Anh đã nhiệt lòng ủng hộ chương trình định cư
thuyền nhân. Một nhân viên của Ủy Ban Cứu Trợ Tị Nạn (Council for Aid to Refugees)
tên Jeanne Townsend nhận xét rằng dân Anh dễ dàng chấp nhận thuyền nhân bởi vì:
'Họ (thuyền nhân) thân thiện với dân Anh. Họ không khó hiểu như các nhóm Á châu
khác mà dư luận biết và họ không có những điều cấm kỵ tôn giáo và xã hội như dân Ấn
Ðộ và nhiều người châu Phi. Họ thích nhậu nhẹt, thích tiệc tùng và là một dân tộc thích
xã giao. Dân tộc Anh ưa thích bất cứ ai dám cỡi ngựa hay lèo láy tàu buồm và họ nể
phục sự can đảm của dân tộc Việt Nam. Phản ứng (tại Anh) là một nỗi xúc động. Người
Việt chứng tỏ họ là những người làm vườn đáng kể, (họ) mua cây cỏ ở bất cứ nơi nào
họ định cư, và sự kiện này khiến dân Anh thích họ. Tôi không cho họ là những thiên
thần. Họ có những vấn đề của họ: kỳ vọng của họ khá cao.'[81]
Thụy Ðiển có lẽ là một trong các quốc gia có một chương trình định cư thuyền nhân
hoàn mỹ nhất. Vào ngày 5-12-1978, Vua Carl XVI Gustaf phát biểu là ông mong muốn
giúp đỡ dân tị nạn Việt Nam mặc dầu ông không có thực quyền trong khuôn khổ hiến
pháp quốc gia. Khi tình trạng sinh tồn của thuyền nhân xuống dốc thê thảm tại Ðông
Nam Á, chính quyền Thụy Ðiển cảm thấy có trách nhiệm phải đóng góp vào nỗ lực
chung của cộng đồng thế giới nhằm cứu trợ dân tị nạn Ðông Dương mặc dầu Stockholm
rất thân thiện với Hà Nội; kết quả là 5.589 thuyền nhân đã được giúp đỡ định cư tại
Thụy Ðiển trong các tháng sau đó. Trong khi những người tị nạn lớn tuổi được học hỏi
ngôn ngữ địa phương cũng như nghề nghiệp mới, trẻ em Việt Nam được trực tiếp gia
nhập hệ thống giáo dục quốc gia - một trong những hệ thống giáo dục tốt nhất trên thế
giới. Song song qua các đường dây ngoại giao, Stockholm cũng đã yêu cầu Hà Nội chấm
dứt kế hoạch buôn lậu lương dân.
Tại Hoa Kỳ, tòa Bạch -c quyết định ngày 31-10-1975 là ngày cuối cùng cho dân tị nạn
Ðông Dương tại các quốc gia Ðông Nam Á được thuyên chuyển vào hệ thống định cư
của Hoa Thịnh Ðốn, và giai đoạn đầu của chương trình định cư tị nạn chính thức chấm
dứt vào ngày 31-12-1975. Vào ngày 5-5-1976, chương trình Expanded Parole (Lưu Xá)
được khai sinh để thâu nhận thêm 11.000 dân tị nạn Cam Bốt, Lào và Việt Nam đang
còn kẹt tại một số trại tạm trú. Chương trình này - vốn là sản phẩm của chính sách phản
ứng tùy nhu cầu thiếu chủ trương rõ ràng đối với cuộc khủng hoảng tị nạn Ðông Dương
- được tiếp tục cho đến năm 1980 khi Luật Tị Nạn được phê chuẩn và thi hành nhằm
quy định số lượng dân tị nạn được thâu nhận vào Hoa Kỳ hàng năm.[82] Luật Tị Nạn
1980 tổ chức Phòng Ðịnh Cư Tị Nạn (Office of Refugee Resettlement) trong Bộ Dịch Vụ
Sức Khỏe và Nhân Phục (Department of Health and Human Services) với nhiệm vụ giúp
đỡ dân tị nạn mới đặt chân đến Hoa Kỳ.
Sau hội nghị quốc tế về tị nạn Ðông Dương I, Tổng Thống Carter ra lệnh cho Ðệ Thất
Hạm Ðội Hoa Kỳ tìm kiếm và cứu vớt thuyền nhân đang gặp hoạn nạn trên biển.[83]
Quốc Hội Hoa Kỳ biểu quyết vào ngày 5-9-1979 để cắt đứt toàn bộ viện trợ trực tiếp hay
gián tiếp cho CHXHCN Việt Nam và tăng thêm $207 triệu Mỹ-kim cho ngân quỹ cứu trợ
dân tị nạn tại Ðông Nam Á. Trong những ngày tháng đầu của chương trình định cư
thuyền nhân, một số nhân viên chính phủ lo ngại là sự hiện diện của dân tị nạn có thể
tạo ảnh hưởng xấu cho thị trường nhân dụng địa phương. May mắn là dư luận Hoa Kỳ
vào đầu niên kỷ 1980 đã hăng hái ủng hộ chương trình thâu nhận thuyền nhân bởi vì
(1) hải trình kinh hoàng của dân tị nạn Việt Nam được hệ thống truyền hình phổ biến
thẳng vào phòng khách của mỗi gia đình Hoa Kỳ với các hình ảnh sống thực cho nên đã
đánh thức lòng trắc ẩn của nhiều người, và (2) tinh thần làm việc tích cực của đại đa số
thuyền nhân cũng như thành quả học tập khả quan của lớp trẻ đã giúp tạo được nhiều
ấn tượng tốt đẹp đối với cộng đồng nhân dân địa phương. Trên bình diện tổng quát, đa
số thuyền nhân mới đến Hoa Kỳ đã tận tụy làm việc để xây dựng cuộc sống vững chắc
trong xã hội mới khiến ngay cả Liên Ðoàn Lao Ðộng Hoa Kỳ (American Federation of
Labor - Congress of Industrial Organizations [AFL-CIO]) phải lên tiếng ủng hộ nỗ lực
định cư dân tị nạn Ðông Dương và phủ nhận huyền thoại 'dân tị nạn cướp đoạt việc làm
của người địa phương' như sau:
'Không có một tổ chức nào lo lắng về vấn nạn thất nghiệp hơn tổ chức AFL-CIO. Nhưng
vấn nạn đó khó có thể bị ảnh hưởng bởi số người Ðông Dương mà chúng ta đề cập đến
- khoảng 25.000 người mỗi năm - hay ngay cả 50.000 dân tị nạn chính trị mà chính phủ
dự trù thâu nhận hàng năm. Trong mọi trường hợp, những người tị nạn này không
giành giựt việc làm của công nhân thép, công nhân kim loại, thợ buôn hàng, nhân viên
chính phủ, thợ ống nước, thợ trải thảm, nông dân và các công nhân khác. Hành động
miêu tả những người tị nạn chính trị này - những người giống như tổ tiên di cư của
chúng ta trước đây chấp nhận các việc làm mà không ai trong xã hội muốn đụng vào -
như một mối đe dọa cho thị trường việc làm, tương tự như tình trạng giao thương quốc
tế bất bình đẳng, mức tiền lời quá cao và chính sách kinh tế sai lạc, chỉ là một trò khỉ
khôi hài.'[84]
Những công dân Hoa Kỳ bình thường và các tổ chức bất vụ lợi đã đóng một vai trò quan
trọng trong chương trình bảo trợ thuyền nhân. Một số tổ chức có những đóng góp to
lớn đáng kể là the U.S. Catholic Conference, Lutheran Immigration and Resettlement
Service, Church World Services, International Rescue Committee, United Hebrew
Immigration and Assistance Service, và the American Council of National Services. Qua
cơ chế bao quát Hội Ðồng Các Tổ Chức Thiện Nguyện Hoa Kỳ (the American Council of
Voluntary Agencies), những cơ quan này đã giúp đỡ các thuyền nhân mới đến về nhiều
mặt từ gia cư, thực phẩm cho đến việc huấn ngữ, giới thiệu về phong tục cũng như đời
sống mới, v.v. Chính phủ Hoa Kỳ đã đóng góp vào ngân quỹ của các cơ quan này $500
Mỹ kim cho mỗi thuyền nhân mà họ bảo trợ.
Song song với nỗ lực của các tổ chức trên, nhân dân Hoa Kỳ và dân tị nạn Việt Nam mới
định cư cũng hoạt động tích cực trong chương trình bảo trợ thuyền nhân. Phong trào
bảo lãnh người tị nạn bộc pháp mạnh trên toàn cõi quốc gia, đặc biệt là từ cộng đồng
dân Ðông Dương mới định cư. Thống kê cho biết là trong những năm đầu của làn sóng
vượt biên, 46% tổng số thuyền nhân đến Hoa Kỳ nhờ vào sự bảo trợ của gia đình hay
bạn bè Việt Nam. Vào cuối thế kỷ 20, 388.238 thuyền nhân và 22.568 bộ nhân đã được
thâu nhận vào Hoa Kỳ, và họ đã thành công trong nỗ lực xây dựng một cộng đồng kinh
tế và chính trị tương đối vững chãi.
Tại Gia Nã Ðại - nơi ẩn náo của những người không nhà (a haven for the homeless) -
cộng đồng nhân dân địa phương đã sốt sắng ủng hộ chương trình định cư dân tị nạn
Việt Nam. Nhiều tổ chức tôn giáo cũng như tư nhân đã tích cực vận động cho việc tài
trợ và thâu nhận thuyền nhân.[85] Khi chính phủ Gia Nã Ðại đưa ra mục tiêu thâu nhận
8.000 người trong năm 1979 và hy vọng là các tổ chức tư nhân có thể bảo lãnh thêm
4.000, các tổ chức nhân dân khắp nơi đã đi xa hơn và thách thức Ottawa thâu nhận
thêm 2 người tị nạn cho mỗi đầu người mà họ có thể bảo trợ thêm trên mức 4.000.
Chính phủ Gia Nã Ðại đã phản ứng bằng cách nâng tổng số người tị nạn được thâu
nhận vào Canada từ 12.000 lên mức 21.000 người và hứa là sẽ nhận thêm 1 người tị
nạn cho mỗi đầu người mà các tổ chức tư nhân có thể bảo trợ thêm trên mức 4.000.
Ban đầu ai cũng nghĩ là phải tốn ít nhất 18 tháng mới có thể tổ chức được mạng lưới
dân sự song song với các phương tiện sẳn có của chính phủ để nhận lãnh 21.000 dân tị
nạn Ðông Dương, nhưng chỉ trong vòng 4 tháng sau là mạng lưới bảo lãnh tị nạn của
nhân dân cùng cơ chế di trú của chính quyền đã bảo trợ quá mức 21.000 người. Phản
ứng phi thường này của nhân dân Gia Nã Ðại đối với thảm trạng thuyền nhân khiến
Ottawa quyết định tăng số lượng người tị nạn được thâu nhận vào Canada lên đến mức
50.000 người; cuối cùng gần 100.000 thuyền nhân và bộ nhân Việt Nam đã được tái
định cư tại Gia Nã Ðại trong chương trình bảo trợ tị nạn Ðông Dương.
Kinh nghiệm của Gia Nã Ðại là một kinh nghiệm kỳ diệu hiếm có khi cả hai khối chính
quyền và nhân dân cùng hy sinh không tính toán lợi hại và đã bắt tay làm việc với nhau
một cách hiệu quả vì lý do nhân đạo cao thượng nhằm trợ giúp dân tị nạn Ðông Dương.
Nỗ lực đặc biệt phi thường của Gia Nã Ðại trong phong trào quốc tế cứu trợ thuyền
nhân đã được Bảo Tàng Viện Văn Minh nổi tiếng tại Ottawa ca ngợi qua cuộc triển lãm
đặc sắc bắt đầu từ tháng 10-1998 mang chủ đề Vietnamese Canadians: Boat People No
Longer (Dân Gia Nã Ðại gốc Việt: Một Thời Thuyền Nhân). Cuộc triển lãm này được tổ
chức để đánh dấu kỷ niệm 50 năm ngày ký kết Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và
tôn vinh tinh thần bác ái của nhân dân Gia Nã Ðại cũng như sự đóng góp quý giá của
thuyền nhân vào xã hội mới. Song song với phim ảnh tị nạn, một mô hình tàu tị nạn khá
lớn đã được đóng theo ký ức của thuyền nhân để trình bày hải trình khó khăn của
thuyền nhân từ lúc vượt biên cho đến ngày đặt chân lên Gia Nã Ðại. Trong ngày khai
mạc cuộc triển lãm với sự chứng kiến của Toàn Quyền Roméo LeBlanc, đại diện Anh
Hoàng,[86] nhiều đồng bào hiện diện đã rớm lệ khi nhìn lại được một số hình ảnh về
quá khứ thuyền nhân đầy thăng trầm của họ.
※ Source: Thuyền Nhân: Ấn Tích Lịch Sử ۩ Lloyd Duong Ͼ 2000
Phụ Chú:
80 Tại Pháp, chỉ 1/3 dân tị nạn Việt Nam biết nói chút ít tiếng Pháp.
81 'They have endeared themselves to the British peoplẹ They are not nearly as
inscrutable as Asians are believed to be and they do not have the same religious and
social taboos as Indians and many Africans. They like a drink, love parties and are an
outgoing peoplẹ The English are dotty about anyone who rides a horse or sails a boat
and they have admired the courage of the Vietnamese peoplẹ It has been an emotional
reaction. The Vietnamese are proving to be remarkable gardeners, buying plants and
trees wherever they settle, and this endears them to the British peoplẹ I don't say they
are angels. They have their problems: their expectations are rather high.'
82 Một nửa số lượng 50.000 người tị nạn được nhập cư hàng năm này được dành cho
dân tị nạn Ðông Dương trong các năm đầu của làn sóng thuyền nhân.
83 Không như tin đồn thất thiệt ở CHXHCN Việt Nam, chính sách của Hoa Thịnh Ðốn
trước tháng 7-1979 là tuyệt đối không gởi tàu đi cứu vớt thuyền nhân Việt Nam. Trong
lúc thực hiện các tác vụ, chiến hạm Hoa Kỳ trong vùng chỉ được phép giúp đỡ ghe tị nạn
nằm trong tình trạng nguy cấp.
84 'No organization is more concerned about the problem of unemployment than the
AFL-CIỌ But that problem will hardly be affected by the number of Indochinese we are
talking about - an estimated 25,000 a year - or even by the 50,000 political refugees the
Administration proposes to admit annuallỵ In any case, these refugees do not take jobs
away from steelworkers, metal workers, retail clerks, public employees, plumbers,
carpenters, farm workers or any others. To portray these political refugees - who like
our immigrant ancestors take jobs no one else in our society seems to want - as a threat
to our jobs, in the same class with unfair international trade, excessive interest rates
and misguided government economic policy, is a travestý
85 Một trong các nỗ lực nhân đạo vĩ đại của nhân dân Gia Nã Ðại đáng kể là chương
trình bảo trợ thuyền nhân phi chính phủ mang tên Operation Lifeline được khai sinh ở
Toronto và bắt đầu hoạt động từ ngày 24-6-1979. Chỉ trong vòng hai tuần lễ sau
khoảng 60 chi nhánh Operation Lifeline đã hiện diện khắp nơi và tích cực vận động tài
lực cũng như nhân lực nhằm bảo trợ dân tị nạn Ðông Dương.
86 Gia Nã Ðại nằm trong Khối Thịnh Vượng Anh và vẫn tiếp tục tôn Anh Hoàng như nhà
lãnh đạo quốc gia.
۞ ___________ ۞
VI. HISTORIC RESCUE EFFORTS
As aforementioned, it was Hanoi’s active role in organizing the departures of ship people that stirred up international controversies in political circles, but it was the boat people’s sufferings at the hands of cruel pirates and local authorities that awoke human conscience and compassion within each individual. The ruthless eviction practices of first-asylum countries and the pirates’ brutal attacks on the defenseless boat people were unprecedented, and consequently prompted many communities around the globe to quickly engage in one of the greatest rescue endeavors in mankind history.
For those boat people who were fortunate enough to reach safety or were rescued at sea, they benefited from an incredible refugee resettlement effort that would probably never happen again in the future. By the year 2000, of the 796,310 boat people and 42,928 Vietnamese land refugees arriving at various temporary camps, more than 720,000 persons were resettled across the globe from Asia, Africa, Australia, to America, Europe and the Middle East. Six countries that took in most of the asylum-seekers are Australia, Canada, France, Germany, the United Kingdom and the United States.
In Australia, despite the leftist and conservative opposition to the resettlement of Vietnamese refugees, 104,048 boat people were eventually admitted. The Asylees were sheltered in immigration centres during their first days and then relocated to various states. The boat people adapted quickly to the new environment, and most of them were willing to take on jobs incompatible with their former training and status. Within a decade later, Vietnamese refugees firmly established themselves and became prominent in the Australian business and political arenas.
New Zealand’s policy concerned the boat people tragedy was influenced by heightened public opinion in favor of assisting Indochinese refugees. Church organizations and sponsorship groups played an important role in appealing for and resettling the Asylees. Notable contributions to the endeavor to help the boat people included the works of two brothers, Hugo and Bill Manson. These two television journalists sent request to New Zealand’s 230 local administrations to ask for 3,200 resettlement places or 1 for each 1,000 citizens. More than half of the administrations replied, and 80% of those responses were positive. Ultimately 4,371 boat people were admitted and integrated successfully into the mainstream society.
In France where 18,468 boat people eventually resettled, the French generosity toward the boat people was incredible. The general public warmly welcomed the refugees into their communities. The arriving Asylees were housed in one of the 3 shelters run by France Terre d’Asile. Medical examinations and access interviews were conducted for relocation purposes. Those who had assisting relatives in France could depart to find employment and housing on their own. Others would be transferred to provincial centres where they learned French and the necessary skills to integrate into the new society.[1] It should be noted that, despite the prevailing racial problem with North African immigrants in France, the public was incredibly generous toward the boat people. Offers of support for Indochinese refugees from across the country poured in at an exponential rate. French families helped to house the boat people temporarily, while various provincial communities organized shelters and job search for them.
In Britain, home of 17,677 boat people, the government’s initial hard-line immigration policy was modified in favor of resettling Vietnamese refugees after Foreign Secretary Lord Carrington visited various refugee camps in Hong Kong and Southeast Asia. The media also enthusiastically promoted the admission of Indochinese refugees, and the general public showed great sympathy and support for the boat people. An officer of the Council for Aid to Refugees, Jeanne Townsend, observed that the U.K. public accepted the boat people more harmoniously because: ‘They have endeared themselves to the British people. They are not nearly as inscrutable as Asians are believed to be and they do not have the same religious and social taboos as Indians and many Africans. They like a drink, love parties and are an outgoing people. The English are dotty about anyone who rides a horse or sails a boat and they have admired the courage of the Vietnamese people. It has been an emotional reaction. The Vietnamese are proving to be remarkable gardeners, buying plants and trees wherever they settle, and this endears them to the British people. I don’t say they are angels. They have their problems: their expectations are rather high.’
Sweden maintained one of the best resettlement systems for the boat people. On December 5, 1978, King Carl XVI Gustaf indicated his wish to assist Vietnamese Asylees even though he actually had no authority to make the decision for his Parliament. As the refugee situation in Southeast Asia worsened, the Swedish government felt an obligation to contribute to the international effort to help the boat people although Stockholm had long maintained a warm relation with Hanoi. The 5,589 boat people ultimately admitted by Sweden were relocated sparely in the southern provinces after spending several weeks at a resettlement centre. While adults were given intensive language courses before entering the workforce, children were integrated directly into the regular educational system. Beside resettling Vietnamese Asylees, Stockholm also made direct and repeated appeals to Hanoi to stop its organized trade of refugees.
In the United States, Washington decided that October 31, 1975 was the last day to transfer Indochinese refugees in ‘third countries’ into the U.S. resettlement system, and December 31, 1975 signalized the end of the refugee program’s first phase. On May 5, 1976, the Expanded Parole Program was instituted to admit initially 11,000 Cambodian, Laotian and Vietnamese Asylees encamped in Southeast Asia. The program was continued until 1980 when the Refugee Act was passed to establish admission quota for refugees.[2] The new Act created the Office of Refugee Resettlement within the Department of Health and Human Service to concentrate on helping newly-admitted Asylees.
After the first international conference on Indochinese refugees, President Carter directed the Seventh Fleet to 'alter their routes as feasible' to seek out and offer 'all possible assistance' to Vietnamese refugee boats at sea.[3] The U.S. House of Representatives voted on September 5, 1979 to bar any direct or indirect aid to Socialist Vietnam while approved an additional $207 million to support refugees in Southeast Asia. During the initial months of the boat people resettlement program, there were concerns that the newly arrived refugees would adversely affect the local employment conditions. Fortunately, public opinion was on the boat people’s side in the early 1980s because (1) their tragic journey to freedom was televised into the living room of most homes with vivid footages and consequently influenced the heart and mind of many families, and (2) the high work ethics and educational achievements of resettled refugees impressed many local communities.
In general, the resettled boat people proved to be hard-working individuals dedicated to rebuild their lives in the newly-adopted country; and therefore, it was not surprised to see the American Federation of Labor - Congress of Industrial Organizations (AFL-CIO) openly supported the resettlement of boat people and categorically dismissed the myth surrounding the Indochinese refugees’ vocational threat:
‘No organization is more concerned about the problem of unemployment than the AFL-CIO. But that problem will hardly be affected by the number of Indochinese we are talking about - an estimated 25,000 a year - or even by the 50,000 political refugees the Administration proposes to admit annually. In any case, these refugees do not take jobs away from steelworkers, metal workers, retail clerks, public employees, plumbers, carpenters, farm workers or any others. To portray these political refugees - who like our immigrant ancestors take jobs no one else in our society seems to want - as a threat to our jobs, in the same class with unfair international trade, excessive interest rates and misguided government economic policy, is a travesty.’
Private U.S. citizens and nonprofit agencies played a major role in the boat people’s resettlement endeavor. Notable were the contributions of the local offices of the U.S. Catholic Conference, Lutheran Immigration and Resettlement Service, Church World Services, United Hebrew Immigration and Assistance Service, and the American Council of National Services.Through the umbrella organization called the American Council of Voluntary Agencies, these organizations provided initial assistance to the newly arrived refugees, whose immediate needs included housing, foods, social orientation, language training, etc. The government provided a subsidy of $500 for each boat person serviced by these agencies.
Beside institutionalized efforts, Americans and Vietnamese expatriates were also active in the resettlement process. Private sponsorships were offered from across the country, especially from the relatively new Indochinese community; in fact, 46% of all Vietnamese refugees entering the U.S. during the early years were sponsored by their friends and relatives. By the end of 1999, 388,238 boat people as well as 22,568 land people were resettled in the United States; and they had successfully built a dynamic and visible presence within the American society.
In Canada, the response to the boat people tragedy was best described by Ottawa’s theme ‘A haven for the homeless.’ Both the public and private sectors including many church organizations and private citizens' groups were actively involved in the sponsorship of Indochinese Asylees.[4] When the Canadian government set the 1979 target at 8,000 admitted refugees and hoped 4,000 more would be sponsored by the private sector, the public went farther by challenging Ottawa to take in 2 additional refugees for every one privately sponsored above the 4,000-person limit. In response, the government raised the total target to 21,000 asylum-seekers and promised to match one-for-one for each refugee privately sponsored over the 4,000-person limit. It was expected to take 18 months to attain the total target, but it took only 4 months to exceed that number. A year later, in light of the massive public sponsorships of boat people, Ottawa elevated the total target to 50,000 refugees. Eventually, nearly 100,000 Vietnamese boat people and land people were admitted into Canada under the Indochinese refugee resettlement program.
The Canadian example represents a rare instance in which both the government and the public cooperated wholeheartedly and interacted effectively in the spirit of humanitarianism to achieve the common goal of assisting Indochinese refugees. The unique Canadian resettlement endeavor was gratefully praised in October 1998 by Ottawa’s spectacular Canadian Museum of Civilization in its meticulously detailed exhibition entitled Vietnamese Canadians: Boat People No Longer. This special presentation organized in celebration of the 50th year anniversary of the Universal Declaration of Human Rights was dedicated to Vietnamese Canadians and their past experience. Along with countless photographs and televised footages, a replicated vessel was crafted to depict the Vietnamese tragic journey to freedom in Canada. At the exhibition’s opening officiated by Governor General Roméo LeBlanc, many Vietnamese refugees in attendance were tearfully moved by emotions because the displays invoked in them powerful memories of their boat people’s path.
※ Source: The Boat People: Imprints on History ۩ Lloyd Duong Ͼ 2000
___________
Note: Toward the end of 1999, approximately 500 illegal immigrants and 1,500 boat people eligible for resettlement remain in Hong Kong, about 1,600 others who failed the flawed refugee-screening procedures are temporarily sheltered in the Philippines thanks to the local Catholic Church's intervention, and the rest or more than 115,000 Vietnamese asylum-seekers were coerced to return to Socialist Vietnam after their refugee claims were dismissed by the defected screening process.
[1] In France, only one-thirds of Vietnamese refugees spoke French.
[2] Half of the ‘normal’ quota of 50,000 refugees was allocated to Indochinese refugees during the first several years.
[3] Before July 1979, Washington's policy was to restrain from commissioning ships to rescue Vietnamese boat people. U.S. Navy vessels on normal deployments were permitted to offer assistance to refugee boats only when the situation deemed necessary.
[4] One of those incredibly compassionate gestures was the non-governmental initiative Operation Lifeline first incepted in Toronto and began its operations on June 24, 1979. Within two weeks, 60 chapters of Operation Lifeline sprung up with private assistance to sponsor Southeast Asian asylum-seekers.
II. HỘI NGHỊ QUỐC TẾ VỀ TỊ NẠN ÐÔNG DƯƠNG II
Lương tâm của nỗ lực bảo vệ dân tị nạn là lòng nhân đạo nhưng guồng máy thẩm định tư cách tị nạn trong thực tế hoàn toàn phụ thuộc nhu cầu chính trị cũng như đôi khi bị ảnh hưởng bởi lòng bác ái xuống dốc của cộng đồng lân bang. Chính sách tiết chế tài chánh và sự hao mòn lòng bác ái dần dần có thể tiêu hủy tình thương bao bọc dân tị nạn và khơi mồi một cách hữu hiệu cho âm mưu dùng bạo lực để hồi hương các nạn nhân ra đi tìm tự do.
Vào hai ngày 13 và 14-6-1989, Hội Nghị Quốc Tế về Tị Nạn Ðông Dương (International Conference on Indochinese Refugees) được chính thức triệu tập tại Geneva. Bảy mươi lăm đại diện quốc gia đã tán thành Chương Trình Hành Ðộng Toàn Diện (Comprehensive Plan of Action [CPA]) nhằm thanh lọc toàn bộ dân vượt biên Việt Nam cũng như hồi hương tất cả những người bị đánh rớt. Chương trình CPA là thỏa hiệp giữa các quốc gia Ðông Nam Á vốn chủ trương sử dụng tất cả mọi phương cách kể cả bạo lực để chấm dứt làn sóng thuyền nhân và một số chính quyền Tây phương vốn chủ trương tạo dựng một khoảng cách thời gian vừa phải (a decent interval) nhằm làm bình phong cho kế hoạch bôi xóa dần dần tư cách tị nạn của thuyền nhân - những người đã bất chấp cái chết để trốn khỏi chế độ cộng sản và trong quá khứ đa số các quốc gia tự do từng công nhận tư cách tị nạn của họ vì hành động can đảm này.[1]
Sự thông cảm đối với thảm trạng thuyền nhân của nhiều chính quyền hình như đã biến mất tại hội nghị quốc tế II. Chính quyền cộng sản Việt Nam vốn từng bị gây áp lực để chấm dứt kế hoạch buôn lậu lương dân lại được thỉnh cầu để thâu nhận dân vượt biên bị hồi hương. Một số tài khoản dành để cứu trợ dân tị nạn được thuyên chuyển cho Hà Nội với hy vọng là chế độ sẽ sử dụng nhằm huấn luyện và tạo công ăn việc làm cho những người bị trả về. Mối lợi nhuận trước mắt cũng như các hứa hẹn đầu tư từ nhiều chính quyền Tây phương đã khiến giới lãnh đạo Hà Nội xui lòng cho nên lập tức thay đổi chính sách cũ vốn chủ trương chống lại việc hồi hương thuyền nhân[2] để sẳn sàng chấp nhận dân vượt biên bị đuổi về.
Ngoại trừ lời hứa không-trả-thù bằng miệng của đại diện Hà Nội, Chương Trình Hành Ðộng Toàn Diện không đề xuất một cơ chế nào thực sự có khả năng kiểm soát tệ nạn thanh lọc bất công cũng như bảo vệ sự an toàn của đồng bào bị cưỡng bách hồi hương. Tại hội nghị quốc tế I về tị nạn Ðông Dương vào năm 1979 (the Meeting on Refugees and Displaced Persons in South East Asia), cộng đồng thế giới cực lực lên án sự gian dối cũng như âm mưu đen tối của giới lãnh đạo Hà Nội đối với vấn nạn thuyền nhân và nhận định rằng điều kiện tại CHXHCN Việt Nam khó có thể bảo đảm an toàn cho vấn đề hồi hương dân tị nạn;[3] nhưng chỉ trong vòng một niên kỷ sau, do chính sách tiết chế tài chánh và sự hao mòn lòng bác ái song song với hy vọng tầm lợi từ chính sách đổi mới kinh tế của Hà Nội, cộng đồng quốc tế quyết định đặt niềm tin vào những lời tuyên bố suông của chế độ cộng sản Việt Nam.
Như đã bàn trong các phần trước, cộng đồng thuyền nhân không chống lại chính sách thanh lọc. Tuy vậy, cộng đồng tị nạn Việt Nam vô cùng lo lắng về phương pháp thực hiện chính sách này một cách thiếu công bằng vốn tạo cơ hội cho tệ nạn tham nhũng hoành hành trong khi lại đánh rớt và cưỡng bách hồi hương những người tị nạn thật sự. Trong một thỉnh nguyện thư phân phát trong hội nghị quốc tế II, 160 tổ chức Ðông Dương tại Bắc Mỹ và Âu Châu (đại đa số là hội đoàn Việt Nam) đã lên tiếng kêu gọi các phái đoàn quốc gia nên lưu tâm đến một số vấn đề liên hệ trực tiếp sự hiểm nghèo của thuyền nhân như sau:
'Chương trình thanh lọc nên được thực hiện với thiện ý dựa trên những tiêu chuẩn được công nhận bởi (1) Công Ước liên quan đến Tư Cách Tị Nạn năm 1951 và Hiệp Ðịnh Thư liên quan đến Tư Cách Tị Nạn năm 1967 như minh định trong Cẩm Nan của Cao Ủy Tị Nạn LHQ về Quy Chế và Tiêu Chuẩn Thẩm Ðịnh Tư Cách Tị Nạn (the UNHCR Handbook on Procedures and Criteria for Determining Refugee Status), và (2) Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền cùng các văn kiện quốc tế khác về dân tị nạn. Các tiêu chuẩn thanh lọc người Việt Nam xin tị nạn nên bao gồm cả sự thẩm định về lý lịch cuộc đời kể cả hoàn cảnh bị đàn áp tại các quốc gia Ðông Dương sau năm 1975.
. . . . .
a. Người xin tị nạn nên được tự do tham khảo tất cả các hồ sơ thanh lọc liên hệ đến cá nhân.
b. Người xin tị nạn nên được hướng dẫn cũng như góp ý trước khi bị thanh lọc.
c. Nhân viên thanh lọc nên được hướng dẫn về luật tị nạn và nhân quyền, phương pháp thẩm vấn, và hoàn cảnh lịch sử cũng như văn hóa của người xin tị nạn.
d. Các câu thẩm vấn nên được thâu thập một cách hoàn chỉnh với sự giám sát của chính quyền.
e. Nhân viên thông dịch tại lúc phỏng vấn ban đầu cũng như khi kháng cáo phải được huấn luyện.
f. Toàn bộ cuộc thẩm vấn phải được thâu lại đầy đủ.[4]
g. Quyết định của nhân viên thanh lọc phải dựa trên các dữ kiện cá nhân của người xin tị nạn, và đối với các quyết định từ chối thì người xin tị nạn phải được thông báo về quyền cũng như cách thức kháng cáo.
h. Người xin tị nạn phải có quyền kháng cáo lên ủy ban kháng cáo cùng tòa án về các phủ quyết chuyên chế hay bất minh với sự hướng dẫn về luật pháp..'[5]
Trên phương diện lý thuyết, Chương Trình Hành Ðộng Toàn Diện yêu cầu 'tư cách người xin tị nạn phải được thẩm định bởi một cơ quan có thẩm quyền và đủ năng lực dựa trên các tiêu chuẩn cũng như quy chế tiền định. Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đóng vai trò quan sát viên và cố vấn viên trong tiến trình này.'[6] Song song, dựa trên thẩm quyền và mục đích của Hiến Chương sáng lập, Cao Ủy Tị Nạn LHQ có thể sử dụng quyền huấn lệnh (mandate authority) để can thiệp vào bất cứ hồ sơ tị nạn khả tín nào.
Trong thực tế, 'các tiêu chuẩn cũng như quy chế tiền định' về việc thẩm định tư cách tị nạn không bao giờ được tôn trọng bởi vì dân vượt biên không bao giờ được hướng dẫn hay tham khảo ý kiến pháp lý trước khi bị thẩm vấn. Song song, ngoại trừ Hồng Kông vốn là thuộc địa Anh quốc cho nên phải chấp nhận thẩm quyền của Cao Ủy Tị Nạn LHQ, đa số các quốc gia Ðông Nam Á hiếm khi tôn trọng đặc quyền hiến chương (mandate authority) của CUTNLHQ;[7] và nhiều nhân viên thanh lọc không hiểu biết về những yếu tố căn bản của định nghĩa tị nạn cũng như tiêu chuẩn pháp lý liên quan đến việc thẩm định tư cách tị nạn mặc dầu chương trình thanh lọc đòi hỏi khả năng áp dụng các nguyên tắc pháp lý một cách cẩn thận và chuyên tâm. Như đã trình bày trong các phần trước, định nghĩa 'thế nào là một người tị nạn?'rất phức tạp khiến một quan sát viên khách quan phải tự vấn là bao nhiêu nhân viên thanh lọc tại Ðông Nam Á đã được thực sự huấn luyện kỹ càng nhằm thực hiện nhiệm vụ một cách công bằng và hữu lý, hay đủ kiến thức để thẩm định tư cách tị nạn ngoài quốc gia (refugee sur place) do các hoạt động tích cực của đương sự sau khi rời Việt Nam, hay ít nhất cũng cẩn thận để tránh không hồi hương một thuyền nhân nếu quyết định phủ quyết có thể đặt đương sự vào một tình trạng hiểm nghèo dựa trên quá khứ bị đàn áp hay ngược đãi.[8]
Trên bình diện lý thuyết, người xin tị nạn bị đánh rớt có thể nộp đơn kháng cáo. Trong thực tế, đơn kháng cáo phải chứa đựng những lời minh giải pháp lý hữu hiệu và phải được viết bằng Anh ngữ, một ngoại ngữ mà rất ít dân vượt biên có thể nói và viết lưu loát. Song song, các hồ sơ kháng cáo được thẩm xét trong vòng bí mật và hoàn toàn tùy thuộc vào quyết định chuyên chế của các cựu thẩm phán được chính quyền kỳ thị dân tị nạn nhờ cậy và trả lương. Dĩ nhiên là không ai cảm thấy ngạc nhiên khi chứng kiến đại đa số dân vượt biên Việt Nam bị rớt thanh lọc và sau đó đơn kháng cáo của họ bị từ chối một cách rất nhanh chóng.
Sau hội nghị quốc tế II, Cao Ủy Tị Nạn LHQ chuẩn bị tiết giảm dần dần các hoạt động tại Ðông Nam Á nhằm chấm dứt chương trình cứu trợ dân tị nạn Ðông Dương, và vì vậy cho nên dịch vụ cố vấn pháp lý cho thuyền nhân bị thanh lọc của Cao Ủy rất giới hạn. Tại Hồng Kông, CUTNLHQ mướn vài luật sư để giúp đỡ đồng bào rớt thanh lọc lập hồ sơ kháng cáo; nhưng chỉ khoảng từ 10% đến 15% người kháng cáo may mắn được luật sư đại diện bởi vì số lượng người rớt thanh lọc thì quá nhiều nhưng khả năng trợ giúp của dịch vụ cố vấn pháp lý của Cao Ủy rất giới hạn. Và khi hồ sơ kháng cáo không do luật sư thụ lý, người đứng đơn dễ bị từ chối bởi vì Hội Ðồng Tái Xét (Review Board) thường suy luận là do lời khai của nguyên đơn bất khả tín cho nên luật sư không chịu đại diện.
Vào dịp lễ Giáng Sinh năm 1993, người viết đã bỏ khoảng một tháng để nghiên cứu tình hình thuyền nhân tại Ðông Nam Á cũng như giúp đỡ đồng bào vượt biên đang xin hưởng quy chế tị nạn mà không được CUTNLHQ trợ giúp pháp lý.[9] Vào vài tuần đầu ở Hồng Kông, tôi cùng với vài luật sư Úc và Hoa Kỳ đã duyệt xét và lập hồ sơ kháng cáo cho vài chục thuyền nhân bị rớt thanh lọc. Chúng tôi phải từ chối không giúp đỡ rất nhiều đồng bào bởi vì khả năng của chúng tôi rất giới hạn mà số lượng người rớt thanh lọc thì quá nhiều. Chỉ khoảng 12% dân vượt biên được Hồng Kông cấp quy chế tị nạn (rất thấp so với xác suất 50% đậu thanh lọc tại Bắc Mỹ);[10] và chỉ khoảng 10% đến 15% thành phần rớt thanh lọc được luật sư giúp đỡ để lập hồ sơ kháng cáo mặc dầu chương trình CPA đòi hỏi CUTNLHQ phải cung cấp dịch vụ này cho tất cả dân vượt biên.[11]
Ngoài cảm giác ưu lo khi duyệt xét các quyết định từ chối thiếu căn bản của những hồ sơ xin tị nạn khả tín, người viết đã vô cùng ngạc nhiên khi chứng kiến thái độ ngược đãi đồng bào vượt biên của nhân viên chính phủ và Cao Ủy vốn đang chủ trương hồi hương toàn bộ thuyền nhân, thay vì xác định và bảo vệ thành phần tị nạn thật sự. Các dịch vụ và nhu yếu phẩm cơ bản trong trại tị nạn bị tiết giảm dần dần; thực phẩm, thuốc men cũng như dịch vụ giáo dục bị giới hạn nhưng Cao Ủy lại còn gây khó khăn cho các nỗ lực cứu trợ thuyền nhân từ bên ngoài. Thay vì được tham khảo luật sư cũng như trợ giúp pháp lý, đồng bào xin tị nạn lại được khuyên nhủ bởi nhân viên CUTNLHQ là nên trở về CHXHCN Việt Nam bởi vì 'tương lai không phải là ở đây.'
Nhằm dự phòng cho cơn khủng hoảng rớt thanh lọc, điều 12 của Chương Trình Hành Ðộng Toàn Diện bắt buộc 'những người được xác định không phải là dân tị nạn nên trở về nguyên quán theo tập quán quốc tế..' và đòi hỏi là 'nếu sau một thời hạn hữu lý, chương trình hồi hương tự nguyện không tiến triển hữu hiệu.. các phương pháp (hồi hương) khác mà tập quán quốc tế chấp nhận sẽ được nghiên cứu..,'[12] có nghĩa là phương pháp dùng bạo lực để cưỡng bách hồi hương là việc tất nhiên phải xảy ra bất chấp tình trạng bất công trầm trọng của chương trình thanh lọc tị nạn. Thông điệp của cộng đồng quốc tế rất minh bạch tại Hội Nghị Quốc Tế về Tị Nạn Ðông Dương II: thuyền nhân Việt Nam không còn được tiếp đón và bảo vệ bất kể lý do ra đi tìm tự do chính đáng của họ. Trong khi hội nghị quốc tế I về tị nạn Ðông Dương vào tháng 7-1979 đánh thức lương tâm nhân loại và phản ảnh nỗi quan tâm cao độ của thế giới đối với nỗ lực cứu trợ và định cư thuyền nhân, hội nghị quốc tế II vào tháng 6-1989 báo hiệu sự hao mòn của lòng bác ái và bước khởi đầu của chính sách ngược đãi mà đồng bào vượt biên tìm tự do phải chịu đựng.
※ Source: Thuyền Nhân: Ấn Tích Lịch Sử ۩ Lloyd Duong Ͼ 2000
___________
[1] See, for example, US Immigration and Nationality Act, Public Law 414, C.477, 24 June 1952, Sec.203(a)(7), as amended by Public Law 89-236, 3 October 1965, repealed by the Refugee Act, 1980.
[2] Vào tháng 6-1979, đại diện ngoại giao của Hà Nội là Mai Văn Bộ đã tuyên bố rõ ràng với Nam Dương và Mã Lai rằng chính quyền CHXHCN Việt Nam không chấp nhận cho thuyền nhân trở về.
[3] 'Conditions in Indo-China have meant that voluntary repatriation, except for the Kampucheans who were in Viet Nam, has been extremely limited' (Note by the High Commissioner).
[4] Ðể có thể hiểu được lý do mà cộng đồng Việt Nam đòi hỏi điều kiện này, độc giả cần biết đến vụ thuyền nhân Nguyễn Mạnh Hùng đã nhờ vào cuộn băng bí mật thâu lại cuộc thẩm vấn mới có thể thành công khi kháng cáo hồ sơ tị nạn của ông. Trong khi bị phỏng vấn thanh lọc, ông Hùng cho nhân viên thẩm vấn biết là ông đã bỏ học bởi vì hệ thống giáo dục của Hà Nội chuyên đầu độc học sinh với các tư tưởng sai trái, nhưng vị nhân viên ghi lại trong hồ sơ là ông Hùng rời ghế nhà trường 'vì ông không thích học' (as he disliked studying). Mặc dầu ông Hùng đã kể rõ ràng và rất chi tiết về những hành động dã man mà guồng máy cộng sản đã sử dụng để đàn áp ông cùng gia đình, ông không được cấp quy chế tị nạn chỉ vì ông là một người Việt Nam đến từ miền Bắc. Nhưng nhờ ông Hùng đã khôn khéo ghi âm một cách bí mật toàn cuộc phỏng vấn, trước khi Tối Cao Pháp Ðình Hồng Kông xử vụ kháng án, chính quyền Hồng Kông đã can thiệp và cấp cho ông Hùng quy chế tị nạn nhằm tránh một vụ xì-căng-đang lớn.
[5] ‘Screening evaluation should be made in good faith based upon criteria recognised in (1) the 1951 the United Nations Convention and the 1967 Protocol relating to the Status of Refugees, as interpreted authoritatively in the UNHCR Handbook on Procedures and Criteria for Determining Refugee Status, and (2) the Universal Declaration of Human Rights and other relevant international instruments concerning refugees. The criteria for screening Vietnamese asylum-seekers should take into account the factual background of life, including the circumstances of oppression, in the post-1975 Indochinese countries.
. . . . .
a. Full and fair access to the determination process, without exception.
b. Pre-screening advice and assistance (provided) to asylum-seekers.
c. Regional training of government personnel in refugee and human rights law, interviewing methods, and the historical and cultural situation of the asylum-seekers.
d. Satisfactory and complete questionnaire implemented with consistency and governmental oversight.
e. Trained and certified interpreters in initial interview and on appeal.
f. Interview on the record.
g. Decision in writing with reasons based on the facts of the particular case, and notice of appeal right and procedures.
h. Right of appeal to administrative board and judicial review for abuse of power or bad faith challenge, with legal advice..’
Towards Humane and Durable Solutions to the Indochinese Refugee Problem, Statement of 160 Indochinese Organizations in North America and Europe to the International Conference on Indochinese Refugees, June 13-14, 1989.
[6] ‘The status of the asylum-seeker will be determined by a qualified and competent national authority of body in accordance with established refugee criteria and procedures. UNHCR will participate in the process in an observer and advisory capacity.’
[7] According to former UNHCR lawyer Simon Jeans, ‘Several refugees whose status had been accepted by UNHCR officials were turned down by Indonesian officials after failing to come up with the cash.’ AFP 9/11/1993.
[8] Hồ sơ ghi chép quyết định của một số nhân viên thanh lọc bộc lộ bề dày của sự thiếu hiểu biết về định nghĩa tị nạn cũng như chứa đựng rất nhiều câu phê chuẩn đầy thành kiến hẹp hòi và sặc mùi kỳ thị chủng tộc.
[9] Xin xem phần phụ trương 'Tình cảnh thương tâm của những người ăn cánh gà.'
[10] Từ tháng 3-1989 đến tháng 12-1995, 60.275 thuyền nhân bị thanh lọc ở Hồng Kông. Chỉ có 11.6% hay 6.974 người được hưởng quy chế tị nạn. Sau khi kháng cáo, thêm 5.8% hay 2.821 hồ sơ được chấp thuận; và Cao Ủy Tị Nạn LHQ đã sử dụng đặc quyền hiến chương (mandate authority) để cấp tư cách tị nạn cho thêm 3.1% hay 1.553 đồng bào nữa. Nếu chỉ nhìn vào các số thống kê này mà không bàn đến vấn nạn thanh lọc bất công thì cũng có thể thấy được là khoảng 9% số lượng thuyền nhân tại Hồng Kông hay gần 4.500 người tị nạn thật sự đáng được bảo vệ đã rớt thanh lọc; số người khổng lồ này có thể bị cưỡng bức hồi hương nếu không được cấp quy chế tị nạn kịp thời, và ngoài họ ra còn không biết bao nhiêu thuyền nhân bị đánh rớt oan uổng. See Vietnamese Asylum Seekers: Refugee Screening Procedures Under the Comprehensive Plan of Action, US GAO’s Report to the Chairman, Subcommittee on International Operations and Human Rights, Committee on International Relations, House of Representatives, 21 October 1996.
[11] 'A right of appeal against negative decisions and proper appeals procedures for this purpose, based upon the existing laws and procedures of the individual place of asylum, with the asylum-seeker entitled to advice, if required, to be provided under UNHCR auspices.' [CPA 6(d)(iii)]
[12] Article 12 of the CPA demanded that ‘people determined not to be refugees should return to their country of origin in accordance with international practices..’ and permitted ‘if after the passage of a reasonable time, it becomes clear that voluntary repatriation is not making sufficient progress.. alternatives recognized as being acceptable under international practices would be examined..’
◙ ___________ ◙
VII. THE SECOND INTERNATIONAL CONFERENCE ON INDOCHINESE REFUGEES
The conscience of refugee protection is humanitarianism but the practice of refugee status determination is political and at times depends on pubic empathy. Fiscal constraints and compassionate fatigue can effectively eliminate the protection for asylum-seekers and forcibly repatriate genuine refugees.
On June 13 and 14, 1989, the International Conference on Indochinese Refugees was held in Geneva to 'adopt a new, comprehensive and solution-oriented approach to the problems posed by the continuing presence in the South-East Asian region of large numbers of refugees and asylum-seekers from Viet Nam and the Lao People’s Democratic Republic and by their continuing exodus into the region' (Objective of the Conference). Seventy-five countries in attendance approved the Comprehensive Plan of Action for Indochinese Refugees (CPA) that endorsed the implementation of refugee-screening procedures and the repatriation of failed claimants. The CPA agreement was a compromise between the first-asylum countries’ insistence to use every possible means including force to end the boat people exodus immediately and the resettlement nations’ preference of a more moderate approach that would provide a decent interval before gradually eliminating the long-reserved refugee protection for Vietnamese Asylees, whose courageous escape from communism should have historically entitled them to political asylum.[1]
The profound sympathy for the boat people tragedy seemed to have vanished into thin air at the conference. The Vietnamese communist regime, previously pressured to stop exporting human cargoes, was urged to take back repatriatees. Funds previously used for refugee protection were turned over to Hanoi supposedly to accommodate and retrain the returned escapees. Immediate financial rewards and future investment pledges led the Vietnamese communist leaders to change their official position from rejection[2]to admission of the repatriatees.
Except Hanoi’s verbal 'assurances' of non-retaliation, no real safeguard to ensure screening fairness and no guaranty of non-reprisal of returnees were prescribed in the CPA. At the 1979 Meeting on Refugees and Displaced Persons in South East Asia or the first International Conference, the world community exposed Hanoi’s deceptive practices and recognized that 'Conditions in Indo-China have meant that voluntary repatriation.. has been extremely limited' (Note by the High Commissioner). A decade later, due to fiscal constraints and compassionate fatigue as well as potential pecuniary gains for foreign participants in Hanoi’s ‘ñ°i m§i’ (renovation) economic policy, the world community chose to believe Hanoi at the detriment of the asylum-petitioners. Humanitarianism was replaced by political maneuvers, which sought to eliminate the generous protection for Vietnamese asylum-seekers.
The boat people as a collective group, as aforementioned, did not oppose the inception of the refugee-screening process. However, they were deeply concerned about its defective implementation which permitted opportunities for corrupt practices while failed genuine refugees, who would be subsequently forced to return to Socialist Vietnam. In a petition to the second International Conference on Indochinese Refugee, 160 Indochinese organisations in North America and Europe rightly submitted:[3]
‘Screening evaluation should be made in good faith based upon criteria recognised in (1) the 1951 United Nations Convention and the 1967 Protocol relating to the Status of Refugees, as interpreted authoritatively in the UNHCR Handbook on Procedures and Criteria for Determining Refugee Status, and (2) the Universal Declaration of Human Rights and other relevant international instruments concerning refugees. The criteria for screening Vietnamese asylum-seekers should take into account the factual background of life, including the circumstances of oppression, in the post-1975 Indochinese countries.
…
a. Full and fair access to the determination process, without exception.
b. Pre-screening advice and assistance (provided) to asylum-seekers.
c. Regional training of government personnel in refugee and human rights law, interviewing methods, and the historical and cultural situation of the asylum-seekers.
d. Satisfactory and complete questionnaire implemented with consistency and governmental oversight.
e. Trained and certified interpreters in initial interview and on appeal.
f. Interview on the record.[4]
g. Decision in writing with reasons based on the facts of the particular case, and notice of appeal right and procedures.
h. Right of appeal to administrative board and judicial review for abuse of power or bad faith challenge, with legal advice…’
In theory, the CPA required that ‘the status of the asylum-seeker will be determined by a qualified and competent national authority of body in accordance with established refugee criteria and procedures. UNHCR will participate in the process in an observer and advisory capacity.’ Furthermore, the UNHCR by its founding Charter could intervene and exercise its mandate authority to make its own assessment of any concerned refugee claim and subsequently could declare any asylum-seeker to be a Convention refugee.
In practice, 'established refugee criteria and procedures' were not respected because the asylum-seekers were never given independent legal advice. Except Hong Kong under British legal influence, most first-asylum countries did not recognize the UNHCR’s right to exercise its mandate authority;[5] and many screening officers did not even understand the basic refugee definition and the legal test for refugee recognition and protection even though the refugee-screening process required the careful and diligent application of legal principles. In light of the complexity of the refugee definition as aforementioned, one had to wonder how many refugee-screening officers in Southeast Asia were trained to apply the test correctly, or to examine the probability of a refugee sur place claim as a result of the asylum-seeker’s overseas pro-democracy activities, or at least to err on the side of caution rather than denying potentially genuine refugee claims?[6]
In theory, a failed asylum-seeker could file his or her appeal for a review of the negative decision. In practice, the appellate submissions had to include legal arguments and be written in English, a language that most asylum-seekers could not speak or write. Furthermore, the review of factual and legal submissions on appeal was conducted in secrecy and depended entirely on the whim of former judges appointed and paid by the local governments. Therefore, it was not surprised to see, in many first-asylum countries, the majority of all claimants failed the refugee-screening process and then had their appeal summarily dismissed thereafter.
After the second international conference, the UNHCR was working to phase out its care and maintenance activities for Indochinese refugees, and thus the provision for legal assistance to the asylum-seekers was extremely minimal. In Hong Kong, the agency retained the service of a few lawyers to help the failed Asylees to file their appeal; but only 10% to 15% of the claimants could secure UNHCR legal representation for their appeals. And when no lawyer could act for an appellant, his or her case was often deemed to be of little merit and summarily dismissed by the Review Board.
In Christmas 1993, this writer spent a month in Southeast Asia to conduct researches and help Vietnamese asylum-seekers, who received virtually no legal assistance in preparation for their hearings. During the first weeks in Hong Kong, I worked with American and Australian lawyers to review and prepare appellate submissions for selected asylum-seekers. We had to exclude many valid claims simply because our resources were limited while there were so many failures. Only about 12% of all claims in Hong Kong were ‘screened in’ (in comparison to the 50% acceptance rate by North American refugee-determination boards);[7]and only 10% to 15% of the failed majority received some assistance in filing their appeals in spite of the CPA provision that proclaimed:
'A right of appeal against negative decisions and proper appeals procedures for this purpose, based upon the existing laws and procedures of the individual place of asylum, with the asylum-seeker entitled to advice, if required, to be provided under UNHCR auspices.' [CPA 6(d)(iii)]
Beside the frustration associated with the never-ending review of rejected valid claims, I was stunned when witnessing the maltreatment that the boat people received from local officials and UNHCR staff who seemed to try repatriating all asylum-seekers, instead of identifying genuine refugees. Basic services and supplies in refugee camps were‘phased out;’ food rations, medical and educational services were severely reduced while outsiders’ support was restricted. As well, instead of legal advice, the asylum-seekers were often ‘counselled’ to return to Socialist Vietnam by UNHCR personnel, who proclaimed ‘the future is not here.’
In anticipation of the incredibly high failing rates, Article 12 of the UN-sponsored CPA demanded that ‘people determined not to be refugees should return to their country of origin in accordance with international practices…’ and permitted ‘if after the passage of a reasonable time, it becomes clear that voluntary repatriation is not making sufficient progress… alternatives recognized as being acceptable under international practices would be examined..,’ i.e. the forced repatriation of asylum-seekers to Socialist Vietnam was deemed acceptable in spite of the serious flaws in the refugee-screening procedures. The international community’s message was loud and clear: the boat people were no longer welcomed regardless of the justification of their flight. While the first international conference on Indochinese refugees in July 1979 awoke human conscience to the boat people tragedy and officiated the commencement of refugee protection and resettlement, the second international conference in June 1989 signalised the ending of compassion and the beginning of maltreatment of Vietnamese asylum-seekers.
※ Source: The Boat People: Imprints on History ۩ Lloyd Duong Ͼ 2000
___________
[1] See, for example, US Immigration and Nationality Act, Public Law 414, C.477, 24 June 1952, Sec.203(a)(7), as amended by Public Law 89-236, 3 October 1965, repealed by the Refugee Act, 1980.
[2] In June 1979, Hanoi’s senior diplomat Mai Væn B¶ made it clear to Indonesia and Malaysia that Socialist Vietnam would not accept any repatriatee.
[3] Towards Humane and Durable Solutions to the Indochinese Refugee Problem,’ Statement of 160 Indochinese Organizations in North America and Europe to the International Conference on Indochinese Refugees, June 13-14, 1989.
[4] In order to appreciate this request, one needs to know about the case of Mr. NguyÍn Månh Hùng, a North Vietnamese boat person who exposed the inherent screening prejudice in Hong Kong. During the screening interview, he told the interviewing officer that he quitted school because of the ‘wrong ideas’ propagated by Hanoi’s educational system; on the contrary, the officer wrote down in his notes that Mr. NguyÍn left school ‘as he disliked studying.’ Unknown to the officer, Mr. NguyÍn secretly taped this interview and later used this record to successfully appeal his case all the way to Hong Kong Supreme Court.
[5] According to former UNHCR lawyer Simon Jeans, ‘Several refugees whose status had been accepted by UNHCR officials were turned down by Indonesian officials after failing to come up with the cash.’ AFP 9/11/1993.
[6] Notes obtained from screening officers contained seriously prejudicial comments and demonstrated their deep ignorance of the Convention refugee definition.
[7] Between March 1989 and December 1995, 60,275 persons were screened under the CPA in Hong Kong. Only 11.6% or 6,974 people were granted refugee status. On appeal, a further 5.8% or 2,821 negative decisions were overturned; and the UNHCR exercised its mandate authority to recognize 3.1% or 1,553 screened-out persons as Convention refugees. See 'Vietnamese Asylum Seekers: Refugee Screening Procedures Under the Comprehensive Plan of Action,' US GAO’s Report to the Chairman, Subcommittee on International Operations and Human Rights, Committee on International Relations, House of Representatives, October 21, 1996.
We use cookies to analyze website traffic and optimize your website experience. By accepting our use of cookies, your data will be aggregated with all other user data.